các phương pháp phê bình văn học
ĐỀ TÀI: "PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM HỌC TỐT MƠN. TỐN LỚP 4". 1. LUAN VAN CHAT LUONG download. : add luanvanchat@agmail.com. A.TÓM TẮT. Vấn đề học sinh yếu kém, chất lượng “ảo’’ đặc biệt là mơn Tốn khơng chỉ là nỗi lo. của các thầy cơ giáo, của ngành giáo dục, mà
Phương pháp và phong cách phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan (Nhìn từ tác phẩm nhà văn hiện đại) Bài viết nghiên cứu phương pháp và phong cách phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan, một trong những nhà lý luận, phê bình hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 31. 2016 PHƯƠNG PHÁP VÀ PHONG CÁCH PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA VŨ NGỌC PHAN (NHÌN TỪ
MỤC LỤCLỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH MỞ ĐẦU11.Tính cấp thiết của đề tài12. Mục đích nghiên cứu23. Yêu cầu của đề tài2CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU31.1. Cơ sở lý luận về công tác cấp giấy chứng nhận
Phong cách học với nghiên cứu, phê bình văn học. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy khi đánh giá về tình hình phê bình văn học theo phong cách học ở nước ta đã có lí khi cho rằng: “Phê bình phong cách một tác phẩm hoặc một nhà văn chỉ bằng một vài nhận xét thì đã có nhiều
Phê Bình Văn Học. Các bài viết trên Phê bình văn học thể hiện cách đặt vấn đề, quan điểm, nhận định, phương pháp tiếp cận, thị hiếu và văn phong của tác giả. Chúng tôi giới thiệu và tôn trọng sự khác biệt, nhưng không nhất thiết đồng tình với bài viết.
Mag Je Flirten Als Je Een Relatie Hebt. 1. PHÊ BÌNH MỚI ANH MỸ NEW CRITICISM IN ENGLAND &AMERICA Phê bình Mới Anh Mỹ là gì?- Là một trường phái phê bình có vai trò hàng đầu trong môi trường học thuật ở Anh Mỹ từ những năm 20 đến những năm 60 của thế kỷ Tập trung khám phá văn bản trên mối quan hệ hữu cơ giữa hình thức và ý nghĩa, không coi trọng các yếu tố nằm ngoài văn biệt chú ý thể loại thơ trên thành tựu tu từ học, thi pháp học, ngôn ngữ Xác lập những phương pháp Đọc kỹ Close -Reading.-Khái niệm Phê bình mới xuất hiện từ một bài giảng của Joel Elias Spingarn The New Criticism A Lecture Delivered at Columbia University, 9 - 3 -1910 và tên cuốn sách New Criticism của John Crowe Ransom năm Các thuật ngữ chính Key terms- Hàm hồ Ambiguity- Nghịch lý Paradox- Chủ đề Theme- Cốt truyện Plot- Tính trớ trêu Irony độ chênh giữa điều được nói và điều được ám chỉ, giữa nghĩa đen và nghĩa Độ căng Tension- Điểm nhìn Point of view- Dạng mẫu âm thanh patterns of sound- Cấu trúc tự sự narrative structure- Văn bản dị ngữ heteroglossic- Phép chuyển nghĩa [trope]- Các biện pháp tu từ hình ảnh image, ẩn dụ metaphor, biểu tượng symbol, nhịp điệu rhythm …- Lầm lẫn về ý định Intentional Fallacy đánh đồng bài thơ với ý đồ của tác giả. - Lầm lẫn về cảm thụ Affective Fallacy nhầm lẫn ý nghĩa của văn bản với tác động cảm xúc của nó lên độc Dị biệt về diễn giải Heresy of Paraphrase khi giải thích một bài thơ, việc tóm tắt chi tiết hoặc diễn xuôi thường làm sai lệch văn Đọc kỹ Đọc gần, Đọc tỉ mỉ Close -Reading /Micro – lecture Đọc tập trung một văn bản, phân tích, lý giải hình thức của văn bản trong mối quan hệ với ý 3. Phương pháp Đi tìm mối quan hệ giữa tư tưởng của văn bản và hình thức của cấp của Đọc kỹ Đọc kỹ có bốn cấp- Cấp 1 Đọc từ vựng và ngữ pháp chú ý các khía cạnh của từ vựng, ngữ pháp và cú pháp, con số của bài diễn văn hay bất kỳ tính năng khác đóng góp cho phong cách cá nhân của nhà tả hiện Cấp 2 Đọc ngữ nghĩa khảo sát về ý nghĩa các từ những thông tin mà bài thơ mang thức về ý Cấp 3 Đọc kết cấu Khảo sát các mối quan hệ giữa các từ và các ý nghĩa trong văn tích kiểm tra, sàng lọc, đánh giá- Cấp 4 Đọc văn hóa Khảo sát mối quan hệ của các yếu tố bất kỳ của văn bản với những yếu tố bên ngoài nó văn bản khác của cùng tác giả, hoặc những bài viết khác của cùng loại của các nhà văn khác nhau; các yếu tố của lịch sử xã hội, văn hóa, triết học, tâm lý giải1. Các bước của Đọc kỹ- Khởi đầu đọc vài lần văn bản nắm nghĩa chung. Lập danh sách các yếu tố khảo sát. Với bút chì và văn bản đánh dấu các yếu tố cần chú Xác định nghĩa của từ, nắm bắt những từ khác lạ, từ khóa. Phân tích mối quan hệ của các từ trong câu lặp, tương đồng, đối nghịch. Lý giải sự lựa chọn của tác giả về các từ có tính cá nhân thế nào? tại sao?- Khảo sát cấu trúc văn bản triển khai thế nào ý tưởng, kết cấu- Khảo sát âm thanh và nhịp điệu các yếu tố này tác động đến ý nghĩa thế nào? Có thể dùng các khái niệm thi pháp học và tu từ học để phân tích. Khảo sát các hình thái diễn ngôn so sánh, ẩn dụ, hình ảnh, biểu Khảo sát câu các loại câu, trật tự của câu, nhịp điệu của câu. Chú ý khoảng lặng, độ ngưng, các nghịch đảo, song song, lặp lại... Phân tích các yếu tố làm nên tính mơ hồ, đa Khảo sát văn cảnh Phân tích- Khảo sát tính chất trớ trêu của văn bản- Khảo sát giọng điệu của nhân vật, người tường thuật, tác giả quan hệ giữa các yếu tố đó kiến thức tự sự học. Phân tích giọng điệu, phong cách. Tìm ra sự lựa chọn của tác giả trong sự kết hợp của tất cả các yếu tố nói trên để tạo ra một văn bản độc Khảo sát các biện pháp tu từ đã sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, hình tượng, biểu tượng…- Khảo sát chủ đề Phát hiện hệ thống chủ đề- Phát hiện giới tính của văn bản- Xác định cốt truyện- Xác lập một đề tài để viết về văn bản, chọn chìa khóa để mở cánh cửa vào câu hỏi thường gặp với người đọc Phê bình Mới-Tính hàm hồ của ngôn ngữ? Kết cấu ngôn ngữ? Các tiềm năng liên tưởng của ngôn ngữ văn chương?- Các thủ pháp văn chương đặc thù? Hàm ý của các thủ pháp này?- Phép điệp, phép so sánh, phép liệt kê, phép chơi chữ?phép chuyển nghĩa [trope]? Phép gián cách hay tạo cự ly? Các mệnh đề song song? Các nhịp điệu, vần?- Các nghịch lý về ý nghĩa và từ ngữ?-Những mỉa mai? mâu thuẫn?- Hiệu ứng của hình thức?- Các hình thức bất thường của câu?- Những mù mờ confusion về quy chiếu?- Những chuyển động trong văn bản?- Hệ thống hình tượng? Hệ thống ẩn dụ? Hệ thống biểu tượng?- Các thiết kế tự sự? Câu chuyện được kể ra như thế nào?- Mạch văn bản? Tuyến trần thuật?-Tác phẩm bắt đầu từ đâu? kết thúc thế nào?- Cách quan sát và miêu tả ?- Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng?- Hành trình ý thức? khách quan? chủ quan?- Hiệu ứng lạ hóa? Có sự phá vỡ “tầm đón đợi” không?- Các chủ đề được phát ngôn như thế nào? Chủ đề then chốt của tác phẩm nằm ở đâu? Độ căng của chủ đề?- Các môtip giới thiệu trực tiếp/ gián tiếp- Vai trò giải trung tâm của nhân vật?- Các cuộc đối thoại có những ý nghĩa gì?- Các loại ý nghĩa? Nghĩa thông thường/ nghĩa hiển ngôn/ nghĩa đặc thù/ nghĩa tiềm ẩn nghĩa riêng?-Ý nghĩa xã hội khác nhau trong nhân vật? Giải mã những suy nghĩ của nhân vật?- Kỹ thuật xây dựng vở kịch? Diễn tiến của kịch? Hậu trường của cuộc đối thoại? Các ý định bị che giấu?-Văn bản có tập hợp ở trong mình nhiều dạng thức ngôn ngữ không? Văn bản dị ngữ -heteroglossic- Phong cách ngôn ngữ của nhân vật riêng/ chung?- Sắc thái diễn ngôn? uy quyền? mềm mỏng? biến hóa? đơn nghĩa và độc thoại- Có trích dẫn hoặc phong cách hóa và quy chuẩn hóa một diễn ngôn khác không? Ý nghĩa của việc đối thoại hóa dialogization? Những động thái đối thoại hóa?-Những từ ngữ hay hình ảnh đặc thù được dùng để thể hiện các ý nghĩa phổ quát?-Ngôn ngữ và ý nghĩa, tinh thần và vật chất, nội dung và hình thức, cái đặc thù và cái phổ quát… tương hợp, dung hòa với nhau như thế nào?-Có hòa giải thành công giữa những điều trái ngược? “Hòa điệu của những xung khắc” cái phổ quát và cái đơn nhất? Các ý nghĩa phổ quát và những nét đặc thù cụ thể?...-Những hình tượng trong tương quan với vẻ ngoài?- Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên?- Tính chất của chủ thể?- Tính chất bất ổn của tri giác?- Tính nước đôi của bài thơ?- Tính chất phân mảnh thời gian, không gian, ý nghĩa…- Ký ức và trí tưởng tượng?- Các dạng ý nghĩa tôn giáo, văn hóa, chính trị… .... cầu-Tiếp cận sâu về văn bản trong khả năng cao Lập một hê thống câu hỏi chi Giữ lại tính đa nghĩa và phức tạp của văn luận Là một phương pháp thực hành, phê bình Mới Anh Mỹ chủ yếu tập trung vào mô tả, phân tích, lý giải hơn là nhận định về giá trị thẩm mỹ hay ý nghĩa cách tân của các tác phẩm văn Ảnh hưởng lâu dài, sâu đậm Phê Bình Mới được giảng dạy trong hầu hết các trường đại học Mỹ, và từ Mỹ, lan rộng sang hầu hết các quốc gia nói tiếng Anh về phân tích thơ Rèn luyện kỹ năng phân tích sâu văn bản, là phương pháp trợ thủ hữu hiệu cho các phương pháp PHÊ BÌNH XÃ HỘI HỌC - Phê bình Xã hội học là gì?- Là một trường phái phê bình manh nha vào thế kỷ 19, hình thành và phát triển mạnh vào thế kỷ 20, phân nhánh và dung hợp vào thế kỷ Khi tiếp cận sự kiện văn học, tập trung khảo sát những yếu tố xã hội có mặt trong văn bản. Xác lập, miêu tả, lý giải những tương quan giữa xã hội và tác phẩm văn Đề cao lý trí, chú ý con người xã hội và xem trọng mối quan hệ nhân quả giữa xã hội và văn Khái niệm “socio-critique” được Claude Duchet khai sinh năm 1971, khi ông đề nghị một cách đọc lịch sử -xã hội về văn bản, ấy là “một thi học nghiên cứu về tính xã hội, gắn liền với một cách đọc trên góc độ hệ tư tưởng, chú ý sự đặc thù của văn bản” C. Duchet- Phê bình Xã hội học hiện đại hiện nay có ba nhánh chính 1 Xã hội học về công việc sáng tạo Lucien Goldmann 2 Xã hội học về trường văn học Pierre Bourdieu 3 Xã hội học về tiếp nhận Hans Robert Jauss. Các phương pháp chính của Phê bình Xã hội Các bước tiến hành của phê bình Xã hội học truyền thống1. Chọn văn bản2. Xác định bối cảnh ra đời của tác Tóm tắt nội dung tác Xác lập hệ thống nhân Xác định mâu thuẫn xã hội và tính giai cấp của các nhân vật trong tác Xác định tính điển hình của nhân vật. 7. Xác định tính điển hình của hoàn cảnh8. Xác định xu hướng chính trị của nhà Đi tìm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác Các bước tiến hành của phê bình Xã hội học hiện đại 1. Chọn văn bản 2. Xác lập các cấu trúc ý nghĩa trong tác phẩm. 3. Xác lập các cấu trúc xã hội tương ứng. 4. Cắt nghĩa mối quan hệ giữa cấu trúc ý nghĩa này với cấu trúc xã hội. 5. Khảo sát sự vận động của các cấu trúc trên. 6. Phát hiện mối quan hệ giữa giữa tư tưởng tác giả và tư tưởng tác phẩm nhất quán hay có một độ chênh nhất định7. Khảo sát yếu tố chính trị trong tác phẩm văn học văn học hậu thực dân.8. Chú ý tính xã hội- lịch sử của cách Khảo sát tác động của xã hội cơ chế, chính sách với tác phẩm và tác giả xã hội học văn học.10. Khảo sát tác động của công chúng với tác phẩm và tác giả mỹ học tiếp nhận.11. Khảo sát yếu tố giới tính trong tác phẩm văn học văn học nữ quyền.2. 3. KẾT LUẬN1. PBXHH là trường phái phê bình có lưu vực rộng nhất và giòng chảy dài nhất so với những trường phái PB Nếu phê bình xã hội học truyền thống nặng tínhquy phạm và quyết định luận thì phê bình xã hội học hiện đại cởi mở hơn, đã làm mới lại lịch sử văn chương bằng một kiếm tìm mở rộng, thông thái và nhạy cảm về phương diện xã hội. Mặt khác, nhờ những tìm tòi trên thực tế văn bản mà nó tiếp cận với ký hiệu học văn học và phân tâm .PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC PSYCHO-CRITICISM Phê bình phân tâm học là gì?- Là xu hướng phê bình manh nha từ cuối thế kỷ XIX, với lý thuyết Phân tâm học Psychoanalysis của Sigmund Freud, phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỷ XX, phân nhánh& dung hợp nửa sau thế kỷ Tiếp cận tác phẩm văn học trên các nguyên tắc về tâm lý học, cụ thể là vô thức. Với S. Freud là vô thức cá nhân, với Jung là vô thức tập Thuật ngữ phê bình Phân tâm học được khai sinh bởi Charles Mauron năm Phê bình phân tâm học là một phương pháp diễn Đối tượng của PBPTH là tâm lý của tác giả, tâm lý của nhân vật và tâm lý của độc Có hai xu hướng PBPTH cổ điển & PBPTH hiện đạiSau S. Freud, phê bình phân tâm học phát triển theo nhiều hướng1. Tập trung vào tác giả và tiểu sử tác giả Marie Bonaparte2. Kết hợp cả hai khuynh hướng, nghiên cứu chủ đề Charles Mauron, Vô thức trong tác phẩm và cuộc đời của Racine, G. Tập trung vào văn bản Jean- Bellemin Noël4. Nghiên cứu văn hóa với tâm bệnh học tộc người G. Devereux5. Kết hợp phân tâm học và Thiền E. Fromm6. Kết hợp phân tâm học và folklore V. Dundes7. Phên tâm học tập trung vào người đọc N. Holland8. Phân tâm học và cấu trúc - kí hiệu học Jacques Lacan Gợi ý về phương pháp Có nhiều hướng tiếp cận1. Nghiên cứu nhà văn như một cá thể hoặc loại hình Tiến hành phân tâm tác Nghiên cứu quá trình sáng Nghiên cứu các loại hình và phép tắc tâm lý trong tác phẩm cấu trúc tâm lý nhân vật, khám phá ý nghĩa tiến hành phân tâm nhân vật trong tác phẩm, khi đó ít nhiều người ta xem nhân vật như là những con người thực, hình dung có một “vô thức của văn bản” thuộc về tác Nghiên cứu tâm lý độc giả thị hiếu, xu hướng đọc, những chia sẻ/ không chia sẻ… Các tiêu điểm cần phân tích-Vô thức-Bản năng tính dục-Cấu trúc nhân cách- Giấc mơ- Mặc cảm Oedip-Xung đột về tâm lý-Những mâu thuẫn, bất thường trong diễn ngôn- Các chủ đề- Hiện tượng chia cắt separation- Những môtíp mất mát loss, chấn thương, lo âu, sợ hãi, ám ảnh, trầm uất, mộng du, kháng cự, tự vệ, bế tắc và hòa giải …- Hiện tượng thiếu hụt/ bù trừ, ngưng đọng/ dịch chuyển, mất trật tự về ranh giới, lẫn lộn giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, che giấu, thèm muốn, ngụy trang, thiếu ý thức về bản thân, không nối kết được với người khác…-Các từ ngữ thuộc tính dục và các biểu hiện tính dục của nhân vật- Cắt nghĩa hiện tượng tâm lý bằng nguồn gốc cá nhân/ nguồn gốc gia đình, xã hội… kiện để thực hành PBPTH-Thành thạo lý thuyết Freud- Hiểu biết thấu đáo về lịch sử thời đại hoặc về ngôn động cảm xúc ở cường độ cực khả năng phân tích và tự phân tích thường Kết luận 1. Bị định kiến của xã hội2. Phạm vi tác phẩm khảo sát hẹp3. Nghiên cứu phê bình là công việc của ý thức mâu Kỹ năng phân tích, cần kết hợp với nhiều thao tác khác, khó5. Dễ bị suy diễn khiên cưỡng mơ hồ4. PHÊ BÌNH NỮ QUYỀN FEMINISM CRITICISM Phê bình nữ quyền là gì?Là một trường phái phê bình văn học thoát thai từ phong trào chính trị xã hội đấu tranh cho quyền bình đẳng phụ nữ, phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, chủ trương xác lập một nền mỹ học, lý luận văn học và sáng tác văn học riêng cho giới Những dung hợp• Phê bình Nữ quyền văn bản• Phê bình Nữ quyền phân tâm học• Phê bình Nữ quyền hậu cấu trúc luận• Phê bình Nữ quyền duy vật• Phê bình nữ quyền hậu hiện đại• Phê bình nữ quyền và đồng tính• Phê bình nữ quyền hậu thuộc địa• Phê bình nữ quyền và kỹ thuật thân Gợi ý phương pháp tiếp cận nữ quyền- Chọn văn bản- Chú ý tác giả-Khảo sát nhân vật- Khảo sát điểm nhìn-Khảo sát hệ chủ đề-Phân tích diễn ngôn-Lý Các câu hỏi khi đọc nữ quyền?- Nên chọn văn bản nào? truyền miệng/ viết cũ/ mới, đàn bà/ đàn ông, tự sự/ trữ tình?-Tác phẩm được thừa nhận/ bị quên lãng/ bị phê phán?-Các nhân vật nào mang tư tưởng nữ quyền?-Các nhân vật nào mang số phận nữ giới? Kết luậnPhê bình văn học Nữ quyền có lịch sử không dài, phát triển theo hướng phân nhánh và dung hợp với các trường phái khác. Phê bình nữ quyềnPhê bình nữ quyền quan tâm đến con người trong mối quan hệ bất bình đẳng giới. Trước một thời đại mà mọi hệ quy chiếu đều đặt vào quyền lực của nam giới, các nhà đấu tranh cho nữ quyền đã đứng lên lật lại vị trí đứng cho nữ giới trong xã hội. Lý thuyết về quyền lực của nữ giới đã bênh vực cho quyền lợi và những khát vọng của người phụ nữ. Phê bình nữ quyền là đọc các tác phẩm văn học bằng cái nhìn mang tính nữ để từ đó khám phá ra những bất bình đẳng trong quan hệ giữa các giới và đồng cảm hơn cho thân phận của người phụ mặt lý thuyết, phê bình nữ quyền chủ trương xác lập một nền mỹ học và lý luận phê bình văn học và sáng tác văn học cho nữ giới. Phê bình nữ quyền trong quá trình tiếp cận các sáng tác sẽ tìm ra những đặc điểm trong lối viết của các tác giả, những đặc điểm chung – riêng nhằm khái quát hóa một quy luật cho việc tiếp cận các tác phẩm sau này dễ dàng và có quy chuẩn. Bên cạnh đó, từ hệ thống lý luận cho phê bình nữ quyền, các tác giả tạo ra một chu trình ngược lại hỗ trợ cho quá trình sáng tác, tạo nên một xu hướng văn học nữ đáng chú PHÊ BÌNH HẬU THỰC DÂN POSTCOLONIAL CRITICISM5. bình Hậu thực dân là gì?Là trường phái phê bình thuộc phạm trù hậu hiện đại, chủ trương đi tìm trong tác phẩm văn học các dấu vết của chính sách thực hiện vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bắt nguồn từ tác phẩm Orientalism 1978 của Edward W. Said và tiểu luận "Postcolonial Criticism" 1992, Homi K. Bhabha. Phê bình hậu thực dân chịu ảnh hưởng PB Marxist, Phê bình Giải Cấu trúc và tư tưởng Michel Foucault .5. 2. Các khái niệm chính?Cái khác Other/ Sự khác biệt DifferenceChủ nghĩa độc tôn MonocentrismTính nước đôi AmbivalentTính lai ghép HybridityTính bắt chước MimicVăn học hậu thực dân Post-colonialist literatureSự đề kháng ResistanceChủ nghĩa quốc gia NationalismDiễn ngôn hậu thực dân Postcolonial discourseDiễn ngôn thực dân Colonial discourse Đối tượng-Văn học trong các nước thuộc địa/ văn học ở các nước thực dân-Văn học trong thời kỳ bị chiếm đóng/ Văn học từ thời kỳ bị chiếm đóng đến nay-Những hệ quả mà chính sách thực dân để lại trên đời sống văn học áp đặt, ảnh hưởng, kháng cự, tái tạo, những mâu thuẫn trong tâm thức dân tộc tự tôn/ tự ti, hoài cổ/ chạy theo cái mới, văn hóa, lịch sử bị phân mảnh, cắt vụn.“Người dân thuộc địa có rất nhiều quá khứ nhưng lại không có lịch sử” Nguyễn Hưng Quốc- “Văn học hậu thực dân” có các chủ đề chính+Sự biến đổi hay sự ăn mòn văn hóa xã hội Dường như mỗi khi nền độc lập được hình thành, một vấn đề chủ yếu lại nảy sinh; đâu là đặc trưng văn hóa mới?+Sai lầm trong đường lối vận dụng quyền lực và khai thác Mặc dù đã không còn bị lèo lái như một thuộc địa, người dân bản xứ dường như vẫn còn bị áp chế bởi những người định cư tại đây. Câu hỏi đặt ra là, ai là kẻ thực sự nắm quyền ở đây, và làm sao để ngày Độc lập thực sự mang ý nghĩa độc lập?+Sự tan rã và chuyển hóa của thuộc địa Chủ đề này thường được đưa ra để khảo cứu về cá nhân thay vì về tổng thể miền đất hậu thuộc địa. Những con người cá nhân thường tự hỏi mình; trên đất nước mới này, điều gì phù hợp với mình và mình có thể kiếm sống bằng cách nào?+Ứng dụng văn học Anh ngữ người ta có thể hỏi liệu ta có thể đạt được yêu cầu mục đích của các môn học hậu thuộc địa, ví dụ như phân tích văn học và văn hóa hậu thuộc địa, mà không quan tâm tới những tác phẩm văn học được viết bằng ngôn ngữ gốc của các quốc gia hậu thuộc địa hay Những gợi ý về phương pháp Triển khai từ các khái niệm xem mục Chú ý các yếu tố sau trong văn bản-sự hòa trộn của tái hiện và thực tại hoặc về việc lẫn lộn tái hiện với thực tại-mặc cảm tự ti/tự tôn dân tộc-những khúc xạ- những đồng hóa- sự tái hiện lịch sử- quá khứ và hiện tại, tái hiện và thực tại- bạo lực đế kháng cự/ tuân phục- quyền lực về kinh tế, quyền lực về tình câu hỏi thường gặp khi đọc Phê bình Hậu thực dân-Các văn bản văn học tái hiện, hiển lộ hay ẩn ngầm, các phương diện của các áp chế thực dân như thế nào?-Văn bản tiết lộ những gì về sự phức tạp trong bản sắc hậu thuộc địa, bao gồm mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa và bản sắc cá nhân, và những vấn đề như ý thức kép, và sự lai tạp?-Những người hay nhóm người nào được định nghĩa là “người khác” hay kẻ xa lạ trong tác phẩm? Những người/nhóm người đó được miêu tả và đối xử như thế nào?-Văn bản tiết lộ những gì về mặt chính trị / tâm lý của làn sóng chống thực dân?-Văn bản tiết lộ những gì về những tác động của sự khác biệt văn hóa – cách thức mà sắc tộc, tôn giáo, giai cấp, phái tính, định hướng giới tính, tín ngưỡng văn hóa, và phong tục kết hợp với nhau tạo nên bản sắc cá nhân – trong việc định hình nhận thức của chúng ta về bản thân và người khác, và về thế giới mà chúng ta đang sống bên trong?-Văn bản trả lời hay đưa ra nhận xét đối với những nhân vật, đề tài, hay giả thuyết của một tác phẩm thực dân được đề cao như thế nào?-Các nền văn học của các cộng đồng hậu thuộc địa có những điểm chung quan trọng nào? luậnLà một trường phái tiếp cận trên xu hướng văn hóa chính trị, Phê bình Hậu thực dân ngày càng phát triển theo hướng phân nhánh ở các quốc gia Phê bình hậu thực dânNhiệm vụ của phê bình hậu thực dân chính là đi tìm những dấu vết của chính sách thực dân áp đặt lên đất thuộc địa. Hậu thực dân là giai đoạn mà người ta nhìn thấy những hậu quả mà chế độ thực dân đã thực thi với các nước thuộc địa. Tuy nhiên, phê bình hậu thực dân không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những hệ lụy đó mà còn tìm những cái biến đổi và nảy sinh trong quá trình tương tác giữa thực dân và thuộc địa. Phê bình hậu thực dân chỉ ra sự lai ghép, hiện tượng chuyển vùng/di dân để mô tả và chứng minh cho một nền văn hóa mới gọi là “đa văn hóa” được hình thành. Song song với đó là hàng loạt các đặc tính tương tự trong văn học hậu thuộc địa mà các nhà nghiên cứu luôn nhấn mạnh tính bắt chước, nước đôi, cái khác,… Những ảnh hưởng của thực dân lên các nước thuộc địa về mặt tinh thần chính là tính đề kháng và tuân phục. Các nhà phê bình đặt ra các câu hỏi liệu rằng có sự phản kháng của các nước nhược tiểu đối với các nước thống trị không hay chỉ là tuân phục, từ đó khai thác các ý nghĩa về sự thoát ly và Chủ nghĩa quốc bình đồng tính quan tâm đến con người của giới tính, nhìn nhận lại giá trị giới tính và phái tính thực sự của con người. Dưới lăng kính của phê bình đồng tính, những giới tính khác như les, gay… bên ngoài sự đối lập nhị nguyên vốn có của giới tính được thừa nhận. Tức là, con người ở giới tính thứ ba được chấp nhận như là một điều tự nhiên. Bởi vì phê bình đồng tính để cho hiện trạng giới tính thực sự của con người lên tiếng nên cũng đồng thời phản đối lại với những định kiến và rào cản mà xã hội áp đặt lên giới khác. Việc con người có một giới tính khác so với quy chuẩn xã hội đã được kiến tạo cũng không phải là một điều phi tự nhiên. Sự xuất hiện của phê bình đồng tính bên cạnh hiện tượng đồng tính kêu gọi việc đem mọi thứ trở về với trạng thái tự nhiên của chính nó. Việc phân biệt nam và nữ đã giết chết đi cái thực sự gọi là phái tính và giới tính. Con người không cần phải sống trong một cái khung bó hẹp nào mà được quyền bộc lộ bản thân họ, không phương hại đến xã hội.
Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn học cũng như các ngành nhân văn và khoa học xã hội nói chung trong thế kỷ 20. CÁC LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH VĂN HỌC 3 Cấu trúc luận Nguyễn Hưng Quốc Cấu trúc luận, vốn thịnh hành trong thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970, được xem là một cuộc cách mạng, thậm chí, là cuộc cách mạng lớn nhất trong lãnh vực nghiên cứu văn học cũng như các ngành nhân văn và khoa học xã hội nói chung trong thế kỷ 20. Trên căn bản, cấu trúc luận tiếp tục con đường Hình thức luận và Phê Bình Mới đã khai mở, chẳng hạn, tham vọng biến nghiên cứu văn học thành một khoa học trong đó đối tượng phân tích chính là văn bản và chỉ là văn bản mà thôi. Tuy nhiên, từ điểm chung ban đầu ấy, cấu trúc luận đã đi rất xa, hình thành hẳn một hệ thống lý thuyết và phương pháp luận hoàn chỉnh không những chỉ có thể được ứng dụng trong lãnh vực văn học mà còn ở vô số các lãnh vực khác nữa. Cấu trúc luận, trong lãnh vực văn học, được xây dựng trên ba nền tảng chính Thứ nhất, lý thuyết ngôn ngữ của Ferdinand de Saussure 1857-1913, người đã chủ trương, một, về phương diện phương pháp luận, chỉ quan tâm đến khía cạnh đồng đại mà loại bỏ khía cạnh lịch đại của ngôn ngữ; hai, ở khía cạnh đồng đại, chỉ tập trung vào tính hệ thống với những quy luật và quy ước chung nhất và loại bỏ những biểu hiện của cái hệ thống ấy, ví dụ, những lời nói cụ thể hàng ngày; và ba, với tư cách là một hệ thống, ngôn ngữ thực chất là những ký hiệu; mỗi ký hiệu là một kết hợp gồm hai mặt, cái biểu đạt signifier và cái được biểu đạt signified, gắn chặt với nhau bằng một thứ quan hệ rất tương đối và hàm hồ, ở đó, ý nghĩa chỉ được hình thành từ những sự khác biệt giữa các ký hiệu. Thứ hai, các phát hiện của Nhóm ngôn ngữ học Prague trong đó nổi bật nhất là Roman Jakobson, người đã đề xuất cách định nghĩa thơ dựa trên các chức năng giao tiếp theo ông, ngôn ngữ, trong giao tiếp, mang nhiều chức năng khác nhau, nhưng khi chức năng thi ca chiếm vai trò chủ đạo, nghĩa là khi sự giao tiếp chỉ tập trung vào bản thân thông điệp, vào ngôn ngữ tạo thành thông điệp, lúc ấy người ta có thơ. Thứ ba, các công trình nghiên cứu nhân chủng học về huyền thoại, hệ thống thân tộc, cách nấu nướng và cách tư duy trong các xã hội sơ khai của Claude Levi-Strauss, người đã làm sáng tỏ cái điều Roland Barthes khái quát thành luận điểm “văn hoá, trong mọi khía cạnh, là một ngôn ngữ.”[1] Trong lời dẫn nhập bài luận văn phân tích bài thơ “Những con mèo” của Baudelaire viết chung với Jakobson, Levi-Strauss tuyên bố “Trong các tác phẩm thơ ca, nhà ngôn ngữ học nhận ra các cấu trúc rất giống với các cấu trúc trong các huyền thoại mà các nhà dân tộc học đã từng bắt gặp trong quá trình phân tích của họ.”[2] ược xây dựng trên nhiều nền tảng như vậy, khác với Hình thức luận và Phê Bình Mới, cấu trúc luận có tính chất liên ngành rõ rệt. Với các nhà cấu trúc luận, nghiên cứu văn học chỉ là một lãnh vực của hệ thống ký hiệu học rộng lớn và đa dạng. Bởi vậy, cấu trúc luận không phải chỉ là một phương pháp luận, một lý thuyết hay một trường phái mà còn là cả một trào lưu. iểm chung của cả trào lưu cấu trúc luận là ở đâu người ta cũng theo đuổi một mục tiêu giống nhau cấu trúc. uổi theo cấu trúc, các nhà cấu trúc luận không quan tâm đến ý nghĩa của từng tác phẩm cụ thể như các nhà Phê Bình Mới. Họ cũng không quan tâm đến cái gọi là tính văn chương như các nhà Hình thức luận. Với các nhà cấu trúc luận, mục tiêu cao nhất của nghiên cứu văn học là phát hiện ra ngữ pháp’ của văn chương, tức những quy ước làm cho một hình thức diễn ngôn nào đó trở thành văn chương. Công cuộc tìm kiếm ngữ pháp’ văn chương ấy, ở Roland Barthes, dẫn đến lý thuyết về các mã’ codes chi phối cách vận hành’ của tiểu thuyết; ở Tzvetan Todorov và Gérard Genette, sự phát triển của thi pháp học, tự sự học narratology và lý thuyết về các thể loại; ở Claude Levi-Strauss, lý thuyết về huyền thoại và văn hoá dân gian nói chung; ở Vladimir Propp và đặc biệt, ở A. J. Greimas, lý thuyết về truyện dân gian; ở Roman Jakobson, lý thuyết về sự chuyển hoá từ trục lựa chọn sang trục kết hợp và từ phong cách ẩn dụ sang phong cách hoán dụ trong thơ; ở Jonathan Culler, lý thuyết về khả lực competence và tính khả thức intelligibility của văn học, tức những điều kiện và quy luật chi phối cách thức diễn dịch để chúng ta có thể hiểu và cảm các tác phẩm văn học, bằng cách đó, nới rộng phạm vi của khái niệm cấu trúc nó không chỉ nằm trong tác phẩm mà còn nằm cả trong động tác diễn dịch của người đọc. Xem cấu trúc và ngữ pháp’ văn chương là đối tượng khảo sát và phân tích chính, cấu trúc luận vượt hẳn các lý thuyết văn học trước nó về tính khoa học’ với những nguyên tắc mang tính phương pháp luận cụ thể, một hệ thống khái niệm rõ ràng, một khả năng ứng dụng gần như vô giới hạn. Tuy nhiên, khi chọn trọng tâm nghiên cứu như vậy, cấu trúc luận cũng đồng thời bỏ qua các tác phẩm và tác giả cụ thể. Hậu quả là, một, do mọi người mải mê đi tìm những quy luật và quy ước phổ quát, lãnh vực phê bình thực hành tương đối yếu; hai, khi lược quy mọi hình thức diễn ngôn vào một hệ thống ký hiệu, ranh giới giữa tính văn chương và tính phi văn chương bị xoá nhoà, một mẩu quảng cáo, do đó, cũng có ý nghĩa tương đương với một kiệt tác; ba, bị hạn chế trong cách nhìn đồng đại, dưới mắt các nhà cấu trúc luận, mọi cái viết đều không có khởi nguồn, do đó, họ không đặt ra vấn đề đánh giá về tính độc sáng của bất cứ một văn bản nào với họ, mọi văn bản đều hình thành từ những gì đã được viết trước đó cả rồi. Nói cách khác, cấu trúc luận có những đóng góp giới hạn trong cả lãnh vực phê bình lẫn lãnh vực văn học sử. Phần còn lại, nơi cấu trúc luận có nhiều thành tựu nhất, là lý thuyết, nhưng lý thuyết của cấu trúc luận chủ yếu là lý thuyết diễn dịch hơn là lý thuyết mỹ học, do đó, tuy cấu trúc luận được xem như một trào lưu rộng lớn nhưng nó lại thiếu những chiều sâu triết học cần thiết để có thể thúc đẩy quá trình vận động của văn học. Nói cách khác nữa, khối lượng kiến thức đồ sộ mà các nhà cấu trúc luận tích luỹ được trong lãnh vực nghiên cứu văn học suốt hơn một thập niên hầu như chỉ giới hạn trong việc giúp người đọc hiểu sâu sắc những điều kiện hình thành văn chương hơn là chính bản thân văn chương. Tài liệu tham khảo thêm Structuralist Poetics Structuralism, Linguistics, and the Study of Literature của Jonathan Culler 1975, Ithaca Cornell University Press; Writing Degree Zero của Roland Barthes 1967, A. Lavers và C. Smith dịch sang tiếng Anh, London Jonathan Cape, bản dịch tiếng Việt của Nguyên Ngọc phổ biến trên website Introduction to Poetics của Tzvetan Todorov 1981, Richard Howard dịch sang tiếng Anh, Brighton Harvester Press; Structuralism in Literature, an Introduction của Robert Scholes 1974, New Haven Yale University Press. Bằng tiếng Việt, có Chủ nghĩa cấu trúc và văn học do Trịnh Bá Dĩnh giới thiệu và dịch 2002, nxb Văn Học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Nguồn
Giải tríSáchLàng văn Thứ ba, 30/12/2003, 0912 GMT+7 Tóm lại, chủ nghĩa hậu cấu trúc, giải cơ cấu, minh giải học và mỹ học tiếp nhận thuộc phạm trù hậu hiện đại. Tư tưởng chung của nó nhằm chống lại chủ nghĩa duy lý trí, chống lại các tri thức khoa học thực chứng, trước hết là [I style="mso-bidi-font-style normal"]tính phổ quát[/I] được gọi bằng những cái tên như Cái Đại Tự Sự hoặc Cái Được Biểu Đạt Siêu Việt. - Nếu chủ nghĩa cấu trúc dựa trên sự tương ứng hoàn toàn giữa CBĐ và CĐBĐ thì hậu cấu trúc luận lại hoài nghi điều này. Nó cho rằng CBĐ không phải để biểu đạt CĐBĐ mà cho một chuỗi về lý thuyết là bất tận CBĐ khác. Như vậy, phê bình một tác phẩm văn học không chỉ dừng lại ở việc truy tìm cấu trúc nội tại của tác phẩm đó nữa, mà phải phá vỡ cấu trúc để tìm nghĩa tác phẩm. Lớp nghĩa thứ nhất được hình thành do cấu trúc nội tại của tác phẩm nghĩa tồn tại, còn lớp nghĩa thứ hai do người đọc tiếp xúc với tác phẩm làm nảy sinh, nghĩa kiến tạo. Đồng thời lớp nghĩa này lại làm xuất hiện một vấn đề mới buộc người đọc phải đào sâu tác phẩm để tìm lời giải đáp lớp nghĩa thứ ba ra đời. Cứ như thế, ý nghĩa tác phẩm tức nghĩa kiến tạo không ngừng vận động và hoàn chỉnh. Tác phẩm văn học, như vậy, là một Tác phẩm mở và chỉ thực sự tồn tại qua sự đọc. Jacques Derrida lại đến với hậu cấu trúc luận từ một hướng phê phán khác. Ông cho rằng lý thuyết kí hiệu học của Saussure vốn dựa trên ưu thế của âm so với chữ, và khi nói thì người ta tạo nên một hình dung giả tạo trong mối liên hệ giữa CBĐ và CĐBĐ vì đã không chú ý đến tính ý hướng của ý thức và sự tác động của bối cảnh văn hóa. Bởi vậy, Derrida đề cao vai trò của chữ, văn tự, văn bản. Mỗi cá nhân đọc văn bản một cách khác nhau trong khuôn khổ một ý thức lịch sử nhất định. Tính khách quan, tính tự trị, tính một trung tâm của văn bản, vì thế bị phá vỡ. Văn bản trở thành liên văn bản. Thậm chí, cả thế giới, rốt cuộc, cũng được coi như một văn bản bất tận, vô hạn. Chủ nghĩa hậu cấu trúc hình thành ở Pháp sau tháng 5 năm 1968, nhưng từ những năm 70 về sau đặc biệt phát triển ở Mỹ, nhất là ở Đại học Yale, nơi mà Jacques Derrida thường sang giảng dạy. Vì thế, ở Mỹ đã hình thành hẳn trường phái Yale với những công trình Giải cơ cấu và phê bình 1979 tập hợp những tác phẩm của J. Derrida, Paul de Man, H. Bloom, G. Hartman và Đọc ngụ ý của Baultman, Lý thuyết văn học của So với hậu cấu trúc luận, thì minh giải học và mỹ học tiếp nhận tiến thêm một bước trong đường lối tiếp cận tác phẩm từ người đọc. Thực ra, không phải đến giờ người đọc mới được chú ý. Xã hội học văn học cũng rất chú ý đến người đọc. Ngay từ 1932, Leavis đã có tác phẩm Tưởng tượng và công chúng đọc, rồi những nghiên cứu về lịch sử thị hiếu, lý thuyết tiếp nhận... Nhưng đó là thứ người đọc ở ngoài tác phẩm, người đọc thụ động không tham dự vào sự sáng tạo tác phẩm. Chỉ đến minh giải học và mỹ học tiếp nhận với ảnh hưởng của hiện tượng học thì người đọc mới trở thành một nhân tố bên trong tác phẩm, như một đồng sáng tạo. Và từ đó văn bản được xem như là một Kết cấu vẫy gọi và Hành động đọc được nghiên giải học và mỹ học tiếp nhận được khai mở với nhà triết học Đức Hans Georg Gadamer với tác phẩm Chân lý và phương pháp và sau đó được hai người học trò lớn của ông đưa lên đỉnh cao là Hans Robert Jauss với công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học 1970, Kinh nghiệm thẩm mỹ và minh giải học văn học và Wolfgang Iser với Kết cấu vẫy gọi, Hành động đọc. còn đưa ra một quan niệm mới về lịch sử văn học bao gồm cả lịch sử tiếp nhận văn học, thậm chí chỉ là lịch sử tiếp nhận. Tóm lại, chủ nghĩa hậu cấu trúc, giải cơ cấu, minh giải học và mỹ học tiếp nhận thuộc phạm trù hậu hiện đại. Tư tưởng chung của nó nhằm chống lại chủ nghĩa duy lý trí, chống lại các tri thức khoa học thực chứng, trước hết là tính phổ quát được gọi bằng những cái tên như Cái Đại Tự Sự hoặc Cái Được Biểu Đạt Siêu Việt. Từ đó, nó chống lại cái trung tâm, đặc biệt là lý thuyết một trung tâm duy nhất được coi là tính cấu trúc của cấu trúc và đề cao những hệ thống đa trung tâm hoặc các liên hệ thống. Sự phi trung tâm hóa này là một đặc điểm dân chủ của hậu hiện đại. Sự đề cao văn bản, đúng hơn văn bản mở hay liên văn bản, nên vai trò của người đọc được đề cao như một liên chủ thể. Cái cá nhân đã từng chết trong một cấu trúc tự tại và khép kín nay lại được hồi sinh. Cũng là một đặc điểm khác, tính nhân văn, của hậu hiện đại. Như vậy, hành trình của tư tưởng phê bình văn học đến đây đã trải qua ba giai đoạn 1 tiếp cận tác phẩm từ tác giả, 2 từ chính bản thân tác phẩm và 3 từ người đọc. Và đã trải qua hai lần thay đổi hệ chuẩn paradigme nghiên cứu từ tác giả sang tác phẩm và từ tác phẩm sang độc giả. Mỗi lần thay đổi hệ chuẩn không chỉ đơn thuần là sự thay đổi đối tượng nghiên cứu, mà là thay đổi quan niệm triết học về tác giả, tác phẩm và người đọc, thay đổi cái nhìn thế giới, lý thuyết và các phương pháp tiếp cận tác phẩm. Sự thay đổi này của hệ thống văn học gắn liền với hệ thống văn hóa và qua nó là toàn bộ đời sống xã hội. Phần 1, 2, 3, 4
Tải về bản PDF Tải về bản PDF Bài luận phê bình là bài phân tích các tác phẩm như một cuốn sách, một bộ phim, một bài báo hoặc một bức tranh. Bài phê bình nhằm mục đích phân tích một khía cạnh nào đó của tác phẩm hoặc đưa tác phẩm vào một bối cảnh rộng hơn. Ví dụ, bài phê bình một cuốn sách có thể tập trung vào giọng văn để xác định xem giọng văn đó ảnh hưởng đến ý nghĩa của cả tác phẩm như thế nào. Hoặc một bài bình luận phim có thể tập trung vào sự lặp đi lặp lại của một biểu tượng trong phim. Dù là phê bình khía cạnh nào, mỗi một bài phê bình cần có một luận điểm về tác phẩm và dẫn chứng trong tác phẩm để chứng minh cho phân tích của tác giả.[1] Hãy đọc tiếp để biết cách viết một bài luận phê bình. 1Hiểu rõ yêu cầu của đề bài. Ngay khi giáo viên giao đề, hãy đọc kỹ hướng dẫn và đánh dấu những chỗ bạn chưa hiểu. Yêu cầu giáo viên giải thích đề bài nếu cần.[2] 2 Đọc kỹ tác phẩm. Bài tập viết bài phê bình yêu cầu bạn đánh giá một quyển sách, một bài báo, một bộ phim, một bức tranh hoặc các loại tác phẩm khác. Để có thể đánh giá được các tác phẩm này, bạn cần làm quen với nguyên văn tác phẩm. Nắm rõ tác phẩm bằng cách đọc đi đọc lại. Nếu bạn được yêu cầu viết về những tác phẩm như một bộ phim hay một bức tranh, hãy xem bộ phim đó nhiều lần hoặc ngắm bức tranh đó từ nhiều góc độ và khoảng cách khác nhau. 3 Ghi chép trong khi đọc. Ghi chép trong khi đọc sẽ giúp bạn nhớ được các khía cạnh quan trọng của tác phẩm cũng như giúp bạn suy nghĩ sâu hơn về tác phẩm đó. Hãy nhớ một vài câu hỏi quan trọng trong đầu khi đọc và cố gắng trả lời những câu hỏi đó khi xem lại ghi chép của bạn.[3] Tác phẩm viết về vấn đề gì? Các ý chính nào được nêu ra trong tác phẩm? Trong tác phẩm có điều gì khó hiểu không? Mục đích của tác phẩm là gì? Tác phẩm có đạt được mục đích đó không? Nếu không thì tại sao và như thế nào?[4] Không tóm tắt lại nội dung - bạn phải thuộc nội dung của câu chuyện rồiHãy ghi lại những suy nghĩ dẫn dắt bài luận Ý của tác giả là gì? Điều đó có kết nối với điều gì khác không? 4 Xem lại ghi chép để tìm ra bố cục và xác định vấn đề. Sau khi đã hoàn thành việc đọc và ghi chép về tác phẩm, hãy đọc lại ghi chép để xem tác phẩm được trình bày theo bố cục nào và vấn đề nào là vấn đề nổi bật đối với bạn. Cố gắng tìm ra giải pháp cho một trong các vấn đề bạn tìm được. Ví dụ, bạn có thể thấy rằng Chí Phèo thật tâm có vẻ lương thiện hơn vẻ bề ngoài, hãy đưa ra một phỏng đoán có tính nhân văn xem tại sao lại như vậy. Bạn nên chọn giải pháp có thể dùng để phát triển thành trọng tâm của bài luận, tuy nhiên lưu ý rằng bạn chưa cần phải đưa ra luận điểm chắc chắn ngay lúc này. Khi bạn tiếp tục nghiên cứu tác phẩm, bạn sẽ dần tìm ra được trọng tâm và luận điểm cho bài phê bình của mình.[5] Không tự suy diễn ý đồ của tác giả Nam Cao tạo nên hình tượng một Chí Phèo xấu xí bởi vì...Hãy diễn đạt điều đó thành cách hiểu của riêng bạn Chí Phèo vốn được tạo hình xấu xí một phần để khắc họa nên cuộc sống khốn khổ của hắn, qua đó, làm nổi bật sự khắc nghiệt của xã hội bấy giờ. Quảng cáo 1 Tìm nguồn tham khảo thông tin nếu được yêu cầu. Nếu bạn được yêu cầu dùng các nguồn thông tin để viết bài phê bình, bạn sẽ cần thực hiện một vài nghiên cứu. Đọc kỹ hướng dẫn của đề bài hoặc hỏi giáo viên nếu bạn có thắc mắc về loại nguồn nào là nguồn thích hợp để dùng trong bài. Sách, bài viết trên các tạp chí học thuật và các trang mạng đáng tin là một số nguồn mà bạn có thể dùng. Dùng dữ liệu trong thư viện hơn là tìm kiếm trên mạng internet. Thư viện của trường thường cho phép truy cập vào nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau. Các cơ sở dữ liệu này này cung cấp miễn phí các bài báo và tài nguyên khác mà bạn không thể truy cập được bằng các công cụ tìm kiếm trên mạng. 2 Đánh giá nguồn để xác minh độ tin cậy. Bạn chỉ nên sử dụng những nguồn đáng tin cậy để viết một bài phê bình mang tính học thuật, nếu không bạn sẽ làm mất đi sự tin cậy của mình với vai trò là tác giả. Sử dụng nguồn dữ liệu của thư viện đảm bảo bạn sẽ tìm được nhiều nguồn đáng tin cho bài viết của mình. Dưới đây là một vài điểm bạn cần xem xét để xác minh một nguồn thông tin có đáng tin hay không.[6] Tác giả và minh chứng về tác giả”. Chọn những nguồn có ghi tên tác giả và cung cấp minh chứng về tác giả đó. Minh chứng cần chỉ ra các thông tin như người này có đủ thẩm quyền hay chuyên môn để phát biểu như một chuyên gia về lĩnh vực này không. Ví dụ, bài báo nói về một loại bệnh sẽ đáng tin cậy hơn nếu tác giả là một bác sĩ. Nếu nguồn bạn tìm được không ghi tên tác giả hoặc tác giả không có minh chứng là đủ thẩm quyền thì nguồn đó có thể không đáng tin cậy.[7] Trích dẫn”. Xem xét xem tác giả của nguồn thông tin có tiến hành nghiên cứu kỹ càng về chủ đề hay không. Kiểm tra tiểu sử của các tác giả hoặc tác phẩm được trích dẫn trong nguồn. Nếu tác giả không trích dẫn hoặc chỉ trích dẫn một vài nguồn thì nguồn thông tin này không đáng tin cậy.[8] Định kiến”. Xem xét xem tác giải có trình bày một cách khách quan, hợp lý về chủ đề hay không. Giọng điệu của tác giả có thường ưu tiên cho một mặt của vấn đề không? Lý lẽ tác giả đưa ra có thường xuyên bác bỏ hay coi nhẹ quan điểm hoặc lý lẽ đối lập không? Nếu có, thì nguồn này không phải là một lựa chọn tốt.[9] Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng bộ môn phê bình văn học thường thể hiện quan điểm riêng của người viết chỉ sau một lần đọc; điều này thường không được coi là có thành kiến vì bản chất của lĩnh vực nghiên cứu văn học này vốn là chủ quan.Không đánh giá thấp một tác giả chỉ vì họ ủng hộ một quan điểm nào bám sát luận điểm của họ với con mắt phân tích và tận dụng những luận cứ vững chắc. Ngày xuất bản”. Cân nhắc xem nguồn này có cập nhật các thông tin mới nhất về chủ đề không. Ngày xuất bản đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu về các chủ đề khoa học vì những công nghệ và phương pháp mới có thể đã chứng minh những phát kiến trước đó không hợp lý.[10] Thông tin được cung cấp”. Nếu bạn vẫn nghi ngờ về độ tin cậy của một nguồn nào đó, hãy kiểm tra chéo một số thông tin mà nguồn đó cung cấp với một nguồn mà bạn tin tưởng. Nếu thông tin mà tác giả đưa ra mâu thuẫn với thông tin trong nguồn mà bạn tin tưởng thì nguồn đó không đáng tin cậy để đưa vào bài viết.[11] 3Đọc nghiên cứu. Khi bạn đã thu thập được tất cả các nguồn thông tin cần thiết, bạn cần dành thời gian đọc chúng. Sử dụng phương pháp đọc giống như khi bạn đọc nguyên văn tác phẩm. Đọc các nguồn thông tin bạn được tìm nhiều lần và đảm bảo bạn hiểu chúng một cách thấu đáo. 4 Ghi chép khi đọc. Tô đậm hoặc gạch chân những đoạn văn quan trọng để bạn dễ dàng tìm đọc lại chúng. Khi đọc, bạn cũng nên ghi lại các thông tin đáng chú ý vào muộn cuốn sổ. Ghi rõ bạn đã trích dẫn nguyên văn thông tin từ nguồn nào bằng cách đặt thông tin đó vào trong dấu ngoặc kép, ghi chú các thông tin về nguồn trích dẫn như tên tác giả, tác phẩm và số trang. Không nhấn mạnh một đoạn nào đó chỉ vì nó có vẻ quan trọng hoặc có ý mạnh những đoạn văn củng cố hoặc làm yếu đi luận điểm của bạn. Quảng cáo 1 Xây dựng quan điểm. Khi bạn đã xây dựng được quan điểm của mình về tác phẩm gốc và đã đọc tác phẩm gốc, bạn sẽ sẵn sàng cho việc viết luận điểm.[12] Luận điểm tốt là luận điểm thể hiện được nội dung trọng tâm của bài viết và nêu ra quan điểm của tác giả. Bạn có thể trình bày luận điểm bằng nhiều câu, câu thứ nhất đưa ra quan điểm chung và câu thứ hai thu hẹp lại thành một quan điểm cụ thể hơn.[13] Đảm bảo luận diểm cung cấp đủ thông tin. Hay nói cách khác, tránh nói đơn giản một điều gì đó “tốt” hoặc “hiệu quả”, hãy nói cụ thể vì sao điều đó “tốt” hay “hiệu quả”.[14] Đặt luận điểm ở cuối đoạn văn đầu tiên nếu giáo viên của bạn không yêu cầu đặt luận điểm ở vị trí khác. Cuối đoạn văn đầu tiên là vị trí truyền thống để trình bày luận điểm trong các bài luận học thuật. Ví dụ, đây là một luận điểm có nhiều câu về hiệu quả và mục đích của bộ phim “Max điên cuồng Con đường tử thần” “Rất nhiều bộ phim hành động đều có chung một mô-típ Một nam anh hùng thường đẹp trai, da trắng đi theo niềm tin vào số mệnh và ra lệnh cho những người khác, hoặc là nghe theo anh ta hoặc là chết. “Mad Max Con đường tử thần” đạt được hiệu quả khi đi ngược lại với mô-típ trên. Thay vì đi theo diễn biến quen thuộc, bộ phim đưa vào nhiều anh hùng, trong đó có nhiều nữ anh hùng, thách thức chuẩn mực lâu đời của các bộ phim bom tấn mùa hè trong làng phim Hollywood”.Không đưa ra những thông tin hiển nhiên Mad Max được đạo diễn bởi George Miller hoặc ý kiến chủ quan Mad Max là bộ phim hay nhất năm 2015.[15] Hãy thể hiện luận điểm mà bạn có thể củng cố bằng luận cứ. 2 Lập dàn ý dựa trên ghi chép. Lập dàn ý trước khi viết nháp để tổ chức thông tin hiệu quả hơn. Dàn ý có thể chi tiết hoặc không chi tiết. Càng nhiều chi tiết được đưa vào dàn ý thì bạn càng chuẩn bị tốt cho bài viết của mình.[16] Bạn có thể xây dựng dàn ý sử dụng gạch đầu dòng bằng số la mã, chữ số và chữ cái. Hoặc bạn có thể sử dụng dàn ý dạng sơ đồ tư duy để tìm kiếm và tập trung ý tưởng trước khi hoàn thiện phát triển ý. 3 Mở bài bằng một câu đi thẳng vào chủ đề. Chủ đề nên được giới thiệu luôn ở phần mở đầu. Dùng các ý chính bạn sẽ triển khai trong bài để giúp bạn xác định cần đưa thông tin nào vào phần này. Phần mở bài luôn luôn giới thiệu ý chính và cái nhìn toàn cảnh về nội dung của cả bài. [17] Không mở đầu bằng những cụm từ sáo rỗng như Trong xã hội ngày nay..., Trong suốt lịch sử..., Ai đó đã nói rằng....Hãy mở đầu bằng một thực tế thu hút, một giai thoại hoặc một cách viết gây chú ý nào đó với nội dung liên quan.[18] Một số kỹ thuật viết mở bài khác bao gồm sử dụng một chi tiết cụ thể để gợi lên quan điểm lớn hơn; đặt câu hỏi mà bài luận của bạn đưa ra câu trả lời, hoặc đưa vào một thông tin hấp dẫn.[19] 4 Cung cấp thông tin nền. Cung cấp đủ thông tin nền hay ngữ cảnh để hỗ trợ người đọc. Cân nhắc và cung cấp trong đoạn mở đầu các thông tin mà người đọc cần biết để hiểu được bài luận của bạn. Thông tin nền sẽ rất đa dạng phụ thuộc vào loại tác phẩm mà bạn phê bình.[20] Không tóm tắt lại các phần nội dung không liên quan tới bài viết phần mở bài sao cho phù hợp với độc giả. Một hội nghị gồm các giáo sư dạy môn Anh ngữ sẽ cần ít thông tin bổ sung hơn so với độc giả của các blog trên mạng. Nếu bạn phê bình một cuốn sách, hãy cung cấp tên tác phẩm, tác giả và tóm tắt cốt truyện. Nếu bạn viết về một bộ phim, hãy nói ngắn gọn về nội dung. Nếu bạn viết về một bức họa, hãy miêu tả khái quát. Luôn ghi nhớ thông tin nền phải hướng đến luận điểm. Cung cấp những gì người đọc cần biết để hiểu về chủ đề và thu hẹp thông tin để giới thiệu luận điểm.[21] 5 Dùng các đoạn trong phần thân bài để thảo luận từng phần của tác phẩm. Thay vì nói về nhiều khía cạnh của tác phẩm trong một đoạn văn, mỗi đoạn chỉ nên tập trung vào một phương diện. Mỗi phương diện đều hướng đến làm rõ cho luận điểm.[22] For each body paragraph, you should do the following Đưa ra ý chính ở đầu đoạn văn. Chứng minh ý chính bằng ít nhất một ví dụ từ nguyên văn tác phẩm. Chứng minh ý chính bằng ít nhất một ví dụ từ các nguồn khác. 6 Xây dựng phần kết bài. Kết bài cần làm nổi bật quan điểm bạn trình bày trong bài.[23] Trước khi bạn viết phần kết bài, dành thời gian xâu chuỗi lại các ý bạn đã viết và xác định hướng kết bài tốt nhất. Có nhiều cách kết bài khác nhau mà bạn có thể chọn. Ví dụ, bạn có thể Tóm tắt và nhắc lại ý chính. Nêu ra sự ảnh hưởng của chủ đề tới người đọc. Chủ đề có thể được đưa vào bối cảnh hay nhận xét rộng hơn như thế nào. Kêu gọi hành độnghoặc các nghiên cứu sâu hơn. Nêu ra những vấn đề mới có thể phát triển từ chủ lặp lại các điểm mà bạn đã nêu trước nhắc tới các điểm trước đó và kết nối chúng thành một luận điểm duy nhất. Quảng cáo 1 Nghỉ một vài hôm trước khi đọc lại bản nháp. Việc nghỉ ngơi sẽ giúp não bộ làm việc tốt hơn. Khi bạn quay lại với bản nháp, bạn sẽ có một cái nhìn hoàn toàn mới. Viết bài trước để có thể dành ra vài ngày hoặc thậm chí một tuần để kiểm tra bài trước khi hến hạn. Nếu bạn không chuẩn bị đủ thời gian bạn sẽ dễ mắc những lỗi đơn giản và dễ bị mất điểm. 2 Dành thời gian xem lại và làm rõ các ý khó hiểu. Khi kiểm tra lại bài cần kiểm tra trên nhiều phương diện để đảm bảo người đọc hiểu hết các ý bạn muốn trình bày. Cân nhắc một số câu hỏi sau Ý chính của bạn là gì? Bạn có thể làm rõ ý chính bằng cách nào? Người đọc là ai? Bạn đã cân nhắc nhu cầu và yêu cầu của họ chưa? Mục đích của bạn là gì? Bài luận này đã hoàn thành được mục đích đó chưa? Dẫn chứng bạn đưa ra có thuyết phục không? Bạn có thể củng cố dẫn chứng bằng cách nào? Các phần trong bài có tập trung phát triển luận điểm không? Bạn có thể tăng cường tính liên kết bằng cách nào? Ngôn ngữ và bố cục có gì khó hiểu không? Bạn có thể làm rõ ngôn ngữ và bố cục như thế nào? Bạn có mắc các lỗi về ngữ pháp, dấu câu hay chính tả không? Nếu có thì sửa như thế nào? Người khác có thể có quan điểm nào trái với quan điểm của bạn? Bạn bác bỏ quan điểm của họ trong bài luận bằng cách nào?[24] 3 Hoàn thiện bài viết bằng việc kiểm tra kỹ lỗi chính tả trên bản cứng. Đọc to bài viết để đảm bảo bạn đã sửa hết các lỗi đánh máy, lỗi ngữ pháp, lỗi dùng từ, đặt câu và các lỗi khác. Dù phát hiện ra một lỗi nhỏ cũng nên sửa, in lại trước khi nộp. Nếu bạn nộp bản mềm bài viết qua email, hãy hỏi giáo viên các yêu cầu về định dạng. Bạn có thể lưu dưới dạng tệp PDF để đảm bảo định dạng bài làm không bị mất. Quảng cáo Lời khuyên Nhờ bạn bè, người thân hoặc người quen kiểm tra lỗi chính tả và nhận xét bài viết. Các nhà văn chuyên nghiệp đọc lại bản thảo của họ nhiều lần và bạn cũng nên làm như vậy. Sẽ dễ hơn nếu bạn viết dàn ý cho phần mở bài và quay lại viết hoàn thiện sau khi đã viết các phần tiếp theo. Nếu bạn thấy bí khi viết mở bài, cứ để đó và viết sau. Viết theo cách của bạn. Ví dụ, nhiều người cần viết dàn ý nhưng người khác lại cho rằng dàn ý hạn chế khả năng viết của họ. Hãy tìm ra quy trình viết phù hợp cho riêng bạn. Lưu ý cách dùng từ. Nên dùng đúng những từ bạn biết thay vì để nghe học thuật hơn mà dùng sai những từ bạn không biết. Bắt đầu viết sớm nhất có thể. Bạn sẽ viết bài tốt hơn và ít bị stress khi dành thời gian viết bài đều đặn trong suốt khóa học hơn là viết gấp rút trong một thời gian ngắn. Thu hẹp chủ đề trong quá trình viết. Nhiều sinh viên mắc sai lầm khi chọn chủ đề quá rộng với suy nghĩ là chủ đề rộng sẽ có nhiều thứ để viết. Thực ra thì chọn một chủ đề hẹp sẽ dễ viết hơn. Ví dụ, viết về vấn đề chiến tranh đúng hay sai gần như là không thể. Ngược lại, nếu viết về việc có nên phản đối một cuộc chiến tranh cụ thể không sẽ dễ dàng hơn. Nếu gặp khó khăn với việc xây dựng bố cục, hãy viết dàn ý dựa trên câu chủ đề của các đoạn văn. Trong dàn ý hãy viết một câu miêu tả mối quan hệ giữa các câu chủ đề. Nếu bạn không thể đưa mối quan hệ này một cách nhanh chóng thì các đoạn văn của bạn chưa được sắp xếp đúng trình tự và cần được sắp xếp lại. Bạn sẽ không có đủ thời gian để đọc hết cả mười hay mười hai cuốn sách về chủ đề của mình. Hãy sử dụng mục lục để tìm đọc các chương quan trọng nhất. Cảnh báo Viết bài kiểu nước đến chân mới nhảy sẽ mắc nhiều lỗi diễn đạt và lỗi ngữ pháp. Giáo viên của bạn đã đọc hàng trăm thậm chí hàng nghìn bài luận của sinh viên nên có thể dễ dàng nhận ra bạn có đợi đến phút cuối mới viết bài hay không. Ghi nguồn thông tin mà bạn dùng bao gồm các trích dẫn, số liệu, khái niệm lý thuyết chính xác nhất có thể. Nếu không chắc chắn thì lỗi sai về mặt trích dẫn vẫn có thể chấp nhận được còn không trích dẫn có thể sẽ bị coi là đạo văn. Về bài wikiHow này Trang này đã được đọc lần. Bài viết này đã giúp ích cho bạn?
Lượt xem 337 STYLE OF LITERATURE RESEARCH AND CRITICISM BY KIEU THANH QUE TRẦN THỊ MỸ HIỀN Trường Đại học Thủ Dầu Một, Việt Nam TÓM TẮT Kiều Thanh Quế là nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. Ông được xem là một cây bút nghiên cứu với phong cách hiếm có ở Nam Bộ. Trong khoảng 10 năm cầm bút, Kiều Thanh Quế đã để lại di sản tác phẩm khá đồ sộ. Bài viết này tìm hiểu các phương diện từ phương pháp nghiên cứu, phê bình đến cách kết cấu, văn phong, ngôn ngữ trong các bài nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, qua đó chúng ta thấy được sự linh hoạt trong việc vận dụng đa dạng phương pháp nghiên cứu, phê bình; kết cấu bài nghiên cứu logic, tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc khoa học; lối viết thẳng thắn, thể hiện cái nhìn bộc trực đối với đối tượng nghiên cứu và vốn ngôn ngữ Nam Bộ khá đặc trưng. Từ khóa Kiều Thanh Quế; nghiên cứu văn học; phê bình văn học; phong cách. ABSTRACT Kieu Thanh Que is a Vietnamese researcher and literary critic in the first half of the twentieth century. Within 10 years of professional activities, he has a large number of works. He is considered as an outstanding researcher in the South. This article will explore not only his research methods and literary criticism but also his textual structure, style, and language in his works. The results show that he is flexible in applying various research methods, his structure of the research is logical and coherent, and his style is frank and direct to the research objectives. In addition, he also used the typical research language of the South Vietnamese in the first half of the twentieth century. Keywords Kieu Thanh Que; literary research; literary criticism; style. x x x 1. Mở đầu Trong giới nghiên cứu, phê bình ở Việt Nam, những cây bút được xem là có phong cách không quá nhiều, bởi phong cách không đi cùng với số lượng tác phẩm nhiều hoặc quá trình hoạt động lâu dài. Phong cách được hiểu như một màu sắc riêng mà chỉ riêng người đó mới có. Từ trước đến nay, Kiều Thanh Quế không phải là một cái tên quá nổi bật ở phương diện được nhắc đến trong các bộ văn học sử, hay là tác giả có lượng trích dẫn cao. Mặc dù vậy, khi tiếp cận sâu và đặt trong chính thời đại của ông, giai đoạn của nền nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, ta sẽ nhận thấy ở cây bút họ Kiều này có một năng lực hiếm thấy. Bắt đầu hoạt động văn học từ năm 24 tuổi, sự nghiệp cầm bút của Kiều Thanh Quế không quá 10 năm, cho ra đời trên dưới 10 đầu sách từ nghiên cứu, phê bình cho đến dịch thuật, khoảng 50 bài viết nghiên cứu, phê bình đăng trên các báo và tạp chí đương thời từ Nam ra Bắc. Con người ấy lúc sinh thời như cảm nghiệm trước được số phận của mình, lúc nào cũng gấp rút, hối hả trên con đường văn học, không thể hoặc không muốn chờ đợi, nhờ vậy mà tính đến năm 1945, hầu như không có cây bút nghiên cứu, phê bình nào vào thời đó có được khối lượng tác phẩm được xuất bản đồ sộ như ông. Bàn về phong cách nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, chúng tôi sẽ tìm hiểu các phương diện gồm phương pháp nghiên cứu phê bình, kết cấu, văn phong và ngôn ngữ. 2. Nội dung Phương pháp nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế Trong tình hình các lí thuyết nghiên cứu văn học mới du nhập vào Việt Nam, mỗi người tùy vào sở trường và định hướng tư tưởng mà chọn cho mình một hướng đi. Hoài Thanh tạo ấn tượng với trường phái phê bình trực cảm; Trần Thanh Mại làm nên tên tuổi với phương pháp phê bình tiểu sử; Trương Tửu chọn phương pháp phê bình văn hóa – lịch sử và phần nào là phương pháp phê bình phân tâm học; Vũ Ngọc Phan hòa trộn giữa phương pháp phê bình tiểu sử, phê bình văn hóa xã hội, phê bình trực cảm, Đặng Thai Mai theo phương pháp phê bình xã hội học marxist… Mỗi người một thể nghiệm khác nhau và ít nhiều để lại dấu ấn riêng. Có một điều rằng, ở Việt Nam trong giai đoạn đó, các nhà nghiên cứu phê bình chủ yếu đi theo hướng thể nghiệm, ứng dụng các lí thuyết vào phê bình chứ không chủ trương giới thiệu lí thuyết văn học. Kiều Thanh Quế là một trong những người tiên phong trong việc giới thiệu và hệ thống hóa về mặt lí thuyết các phương pháp phê bình. Làm công việc đó, ông có điều kiện tiếp cận tìm hiểu sâu lí thuyết từng trường phái. Tuy nhiên, trong khi áp dụng vào công việc nghiên cứu phê bình, ta lại thấy ông không theo hẳn một trường phái hay một phương pháp nào mà luôn có sự lựa chọn ứng dụng phù hợp với mỗi đối tượng. Cũng như từ đầu đến cuối, ta thấy ông vẫn luôn giữ một thái độ khách quan, khoa học, tuân theo các nguyên tắc biện chứng để thẩm định, đánh giá một tác phẩm, ít khi ông để lộ cái tôi hoặc đường hướng tư tưởng của mình trong các bài nghiên cứu, phê bình. Đó là một trong những điểm đặc biệt và cũng là đáng trọng ở ngòi bút này. Tổng kết lại trong toàn bộ di sản văn học của Kiều Thanh Quế, chúng tôi nhận thấy ông có vận dụng một số phương pháp nghiên cứu, phê bình chính như phương pháp phê bình tiểu sử của Sainte Beuve; phương pháp phê bình văn hóa – lịch sử của H. Taine; phương pháp phê bình giáo khoa của Lanson; phương pháp so sánh, phương pháp phê bình trực giác, cũng như vận dụng thuyết tiến hóa văn học của Brunetière. Phương pháp nghiên cứu văn hóa – lịch sử Phương pháp nghiên cứu này thể hiện rõ trong công trình Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam 1943 của Kiều Thanh Quế. Mặc dù tác phẩm được kết cấu tựa trên bình diện ngôn ngữ, nhưng ở đó, tác giả khảo cứu rất kĩ lưỡng các yếu tố về lịch sử, văn hóa trong nước cũng như khu vực Đông Á có tác động đến việc hình thành các trào lưu, khuynh hướng văn học thời trung đại. Đây là phương pháp nghiên cứu thông dụng trong các công trình khảo cứu văn học thời bấy giờ như Việt Hán văn khảo, Việt Nam cổ văn học sử… Tuy nhiên, với Kiều Thanh Quế, phương pháp này có phần phát huy hiệu quả hơn, bởi ông đã chọn lọc và dựa trên nhiều tài liệu lịch sử để mô tả và lí giải các vấn đề của văn học. Phương pháp này cũng cho thấy quan niệm Văn – Sử – Triết bất phân vẫn có một sự chi phối nhất định trong lĩnh vực khảo cứu văn học lúc bấy giờ. Do dòng văn học mà ông đang nghiên cứu chủ yếu là văn học thời kì trung đại nên cảm quan lịch sử không tách rời văn chương, tư tưởng. Phương pháp này cũng được Kiều Thanh Quế vận dụng trong công trình Ba mươi năm văn học 1942. Phương diện văn hóa được ông trình bày từ sự hình thành, vận động và phát triển của chữ quốc ngữ cùng các thiết chế văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng phương Tây du nhập vào Việt Nam. Về lịch sử xã hội, Kiều Thanh Quế cho thấy một xã hội đang vận động theo xu hướng hiện đại hóa với sự trợ lực của ngành xuất bản, báo chí và ngành thương mại văn học đang khởi sắc. Nhu cầu đọc của dân chúng ngày càng cao là kết quả của một xã hội đang phát triển. Cùng lúc đó, văn hóa đọc là bệ phóng cho văn học chữ quốc ngữ ra đời đa dạng về thể loại, đáp ứng được thị hiếu thẩm mĩ của người đương thời, từ thơ ca, đến là tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn, kịch nói, phê bình, dịch thuật… Ngoài ra, ta còn thấy Kiều Thanh Quế kế thừa tinh thần thuyết tiến hóa văn học của Brunetière để dẫn dắt, lí giải, giúp người đọc có thể hình dung quá trình vận động, phát triển của văn hóa, văn học nước nhà. Cùng với đó, tác giả còn cho thấy một cơ chế xã hội học văn học đã hình thành, tồn tại và chi phối sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Có thể nói, với công trình này, Kiều Thanh Quế đã kết hợp khá hiệu quả các phương pháp nghiên cứu nhằm vẽ nên một bức tranh 30 năm văn học Việt Nam. Trở lại phương pháp chủ đạo là văn hóa – lịch sử, Kiều Thanh Quế còn vận dụng khi bàn về Truyện Kiều trong bài “Nỗi lòng Tố Như dưới triều Gia Long”. Bài viết dẫn ra nhiều cứ liệu về lịch sử cuối Lê đầu Nguyễn cũng như các yếu tố về tiểu sử của Nguyễn Du nhằm minh giải một số tình tiết trong Truyện Kiều. Ông đã cho thấy được mối liên hệ cũng là sự tương đồng trong chính cuộc đời của Nguyễn Du được thể hiện qua một số câu thơ trong Truyện Kiều. Cuối cùng, ông xác định “Truyện Kiều phản ánh tấm lòng Tố Như dưới triều Gia Long” Nguyen & Phan, 2009, Phương pháp phê bình tiểu sử Phương pháp phê bình tiểu sử vốn là một phương pháp rất thịnh hành trong môi trường nghiên cứu văn học lúc bấy giờ. Tuy nhiên, với phương pháp này, Kiều Thanh Quế sử dụng khá chừng mực. Một phần vì Kiều Thanh Quế không chú trọng mảng phê bình nhân vật mà thường phê bình tác phẩm hoặc các sự kiện văn học. Do vậy, phương pháp này không phải là thông dụng và tối ưu đối với ông. Trong một số trường hợp cụ thể, khi nhận thấy phần tiểu sử nhà văn ánh xạ rõ nét trong sự hình thành cốt truyện và phong cách viết văn, Kiều Thanh Quế mới vận dụng phương pháp này. Bài phê bình “Chân trời cũ” của Hồ Dzếnh là một trong những trường hợp đặt biệt đó. Ông cho rằng “cốt truyện tác giả dàn xếp trong đoản thiên của mình toàn là chuyện gia đình tác giả – một gia đình Trung Hoa sống trên đất Việt Nam… Điều khiến tôi cảm động là lòng sầu xứ không thôi cộng với nỗi đau khổ của tác giả” Nguyen & Phan, 2009, Ngoài ra, trong phần phê bình tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Kiều Thanh Quế cũng ít nhiều sử dụng phương pháp này khi tìm mối liên hệ với tiểu sử nhà văn, nhằm lí giải khuynh hướng sáng tác của nhà văn họ Vũ này. Phương pháp liên tưởng, so sánh So với các phương pháp nghiên cứu, phê bình khác, đây là phương pháp được ông vận dụng nhiều nhất, đan xen trong các bài phê bình. Đặt đối tượng nghiên cứu trong mối liên hệ liên tưởng, so sánh, Kiều Thanh Quế cho thấy biên độ cũng như sự giao thoa giữa các vùng văn học hoặc các đối tượng khác nhau, từ đó khắc họa rõ nét đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này được ông sử dụng một cách uyển chuyển, linh hoạt, tạo cho bài viết có một đường dây dẫn dắt, tạo sự hấp dẫn cho người đọc cũng như dùng để cập nhật các kiến thức văn học cho độc giả. Chính Kiều Thanh Quế trong một bài phê bình khác đã cho rằng vận dụng phương pháp đối chiếu so sánh sẽ giúp cho những lời bàn giải có thêm căn cứ và điểm tựa để tăng sức thuyết phục trong lập luận Nguyen & Phan, 2009, Như vậy, so sánh là một phương pháp được Kiều Thanh Quế ý thức lựa chọn nhằm làm mạnh mẽ, sáng rõ thêm các vấn đề mà ông đang đề cập. Chẳng hạn khi phê bình Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ông liên hệ với Tiêu sơn tráng sĩ của Khái Hưng và Trường đời của Lê Văn Trương để so sánh về dung lượng, cũng là một cứ liệu để giúp ông khẳng định giá trị của Giông tố. Ông cho rằng “Giông tố của Vũ Trọng Phụng về lượng ngang ngửa với Trường đời của Lê Văn Trương nhưng về phẩm thì vượt cao hẳn lên một cách trông thấy” Nguyen, & Phan, 2009, Và cũng đề phòng ý kiến cho rằng một tác phẩm hay không nhất thiết phải dài, ông lập luận và dẫn chứng các tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới để làm vững chắc thêm ý kiến của mình. Các bạn đừng vội tin câu “văn hay bất luận đặt dài” của bọn văn sĩ bất tài đem ra phỉnh phờ các bạn. Vì chúng tôi đố các bạn tìm đâu ra được một cuốn tiểu thuyết Âu châu trừ nước Pháp mỏng meo sốc sếch như đa số tiểu thuyết ta trình bày nhan nhản ở khắp hàng sách trong nước hiện nay. Cuốn tiểu thuyết nào của Marxim Gorki, Léon Tolstoy, Dostoievsky, Sinclair Lewis, Stefan Zweig, Somerset Maugham, Vicki Baum, Blasco, Hânez, Pearl Buck cũng dày ba bốn trăm trang. Nguyen, & Phan, 2009, Không chỉ so sánh về kĩ thuật viết, ông còn có những liên tưởng, so sánh về nội dung đề tài. Trong khi phê bình Quê người của Tô Hoài, ông đã liên hệ với Sau lũy tre xanh của Khái Hưng và Con trâu của Trần Tiêu để khái quát thành một bộ “nhân sinh hí kịch sau lũy tre xanh” ở đất Bắc Nguyen, & Phan, 2009, Cùng hệ đề tài này, ông cũng liên hệ các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ở Nam Bộ như Con nhà nghèo, Ngọn cỏ gió đùa, Cay đắng mùi đời… Cũng bằng phương pháp so sánh này, ở nhiều chỗ đã cho thấy cặp mắt phát hiện khá tinh tường của Kiều Thanh Quế. Chẳng hạn trong bài phê bình Đồng bệnh – kịch của Khái Hưng, ông nhận thấy “kịch Khái Hưng khác kịch của Đoàn Phú Tứ ở điểm người đàn bà là chủ động trong kịch của Đoàn Phú Tứ, trong khi người đàn ông đóng vai trò quan trọng ở kịch Khái Hưng” Nguyen, & Phan, 2009, Cuối cùng, thẩm định lại tài năng của tác giả này, ông thay nhận định bằng một phép so sánh “Ngòi bút Khái Hưng dồi dào lắm! Nhưng dồi dào đâu phải đồng nghĩa với đặc sắc! Khái Hưng viết tiểu thuyết diễm tình, gia đình thành công không ai chối cãi được. Bắt sang lịch sử tiểu thuyết, tác giả Tiêu Sơn tráng sĩ vẫn còn đáng trọng hơn Lan Khai. Nhưng trong phạm vi kịch bản, chúng tôi không làm sao khỏi đặt Khái Hưng dưới Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ!” Nguyen, & Phan, 2009, Phương pháp phê bình trực cảm Cùng với các phương pháp nghiên cứu văn hóa – lịch sử, phương pháp phê bình tiểu sử, Kiều Thanh Quế đâu đó vẫn có sử dụng phương pháp trực cảm hay còn gọi là trực giác để cảm nhận và đánh giá một vài đối tượng văn học. Vận dụng phương pháp này, theo chúng tôi, là một trong những cách làm mềm hóa ngòi bút trọng về tư duy biện chứng của Kiều Thanh Quế. Thật ra đây không phải là một phương pháp thuần túy mang tính chủ quan. Kiều Thanh Quế từng phê bình “Triết học Bergson” và đã nhận thấy rằng Trực giác là một phương pháp nhận thức biệt hẳn ra ngoài lí trí nhưng không phải phản với lí trí. Thực tại nào mà trực giác đã tìm ra cũng có thể dùng lí trí để thí nghiệm xem xét lại. Thế thì tiếng “trực giác” đây không phải theo nghĩa thông thường, chỉ một cách ức đoán, một sự cảm giác thuần thuộc về chủ quan, một cái tâm trạng thuộc về tình cảm đâu. Trái lại đó là một cách suy nghĩ, một cách chú ý thâm trầm, không thiết đến sự hành động ở ngoài, bỏ cả những tiếng nói và lí luận thông thường để mà trực tiếp cảm xúc lấy cái chân tướng. Nguyen, & Phan, 2009, Ông cho rằng trực giác của Bergson là trực giác suy lí. Nó khác với trực giác của nhà Phật, là trực giác thần bí. Trong một số bài phê bình, Kiều Thanh Quế hay có những nhận định ban đầu theo hướng trực cảm này nhằm tóm lấy toàn bộ ý cốt lõi của vấn đề, mới xem qua thấy có phần hơi chủ quan; tuy nhiên, ngay sau đó bằng những lập luận, dẫn dắt, diễn giải cận văn bản, ông đã cho người đọc thấy được vì sao ông có cảm nhận đó. Hoặc cũng có một số đoạn ta thấy ông để mạch văn chiều theo cảm xúc của mình. Đó là những lúc ngòi bút vốn rắn rỏi của ông trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, gợi sự liên tưởng. Phương pháp này cũng có phần gần với lối phê bình văn học cổ điển phương Đông, làm mềm hóa tính rạch ròi của ý thức. Mặc dù mạnh ở tinh thần khúc chiết, khoa học kiểu phương Tây, nhưng về cảm quan chung, Kiều Thanh Quế vẫn giữ lại phần nào nét cổ điển. Có thể nói rằng, đối với các thể loại có sự tiếp nhận kĩ thuật viết của phương Tây, về mặt hình thức, Kiều Thanh Quế luôn chú trọng kĩ thuật viết, còn về nội dung, ông sẽ đứng trên quan điểm xã hội tiến bộ. Nhưng khi phê bình thơ ông lại để tâm hồn mình nghiêng về phía cổ điển nhiều hơn. Đối với Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân, khi phê bình, Kiều Thanh Quế gián tiếp bộc lộ cảm quan này khi không đánh giá cao tác phẩm của các nhà thơ Mới chịu ảnh hưởng trào lưu cách tân văn học của phương Tây như Bích Khê, Hàn Mặc Tử. Nói cho cùng, thơ là chuyện của tâm hồn. Ở một chừng mực nào đó, những người làm văn chương ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, đặc biệt là có xuất thân từ vùng đất Nam Bộ ít nhiều vẫn còn lưu giữ một phần mĩ cảm của cái truyền thống. Cho nên, với phương pháp phê bình trực giác này, ta thấy ở Kiều Thanh Quế vừa có tiếp thu của Bergson, vừa giữ lại một chút cảm quan cá nhân thuộc về truyền thống văn học phương Đông, khó tách rời. Ngoài các phương pháp kể trên, Kiều Thanh Quế cũng hay sử dụng một số phương pháp tuy lúc đó chưa thành tên gọi giống sau này như thi pháp học, phong cách học và cả phương pháp phê bình giáo khoa. Với phong cách học, trong phê bình Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, ông đã nhận ra “tánh cách ngòi bút” của tác giả này. “Văn chương Hồ Dzếnh có những nhịp uyển chuyển và buồn lạ như những khúc nhạc lâm li ai oán. Những khúc nhạc đều đều ấy… gợi lên được bao nhiêu vang bóng trong lòng độc giả” Nguyen & Phan, 2009, Hay trong khi phê bình Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ông nhận định “Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết chú trọng ở tính cách duy nhất, uyển chuyển, rộng rãi của sự sống” Nguyen, & Phan, 2009, Về phương pháp phê bình thi pháp học, ta thấy đậm nhạt trong bài “Câu chuyện con số trong thơ và nhạc trong thi ca”. Ở đó, ông chú trọng phân tích kĩ lưỡng từng kí hiệu văn học như nghệ thuật dùng con số, phân tích nghệ thuật cộng hưởng âm của một bài thơ Việt Nam trong tương quan so sánh ngôn ngữ thơ giữa tiếng Việt và tiếng Pháp. Đoạn phân tích giá trị biểu đạt của câu thơ “Bóng dương mấy buổi xuyên ngang/ Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai” qua bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm mới thật tài tình, đã cho thấy một khả năng phân tích tâm lí thấu đáo. Ông viết Ai hẹn với mình mười lần mà sai hết mười, mình đau đớn thật. Nhưng sự đau đớn của mình chỉ trong một thời gian rất ngắn mà thôi. Vì mình thấy rõ mình không có một mảy may hi vọng nào được kẻ ấy thương tưởng đến. Còn ai hẹn với mình mười lần mà sai hết chín, được một lần đúng hẹn thì sự đau đớn của mình dài dằng dặc… Vì một lần đúng hẹn, người tình của mình đã gieo vào lòng mình một tia hi vọng. Mang tia hi vọng mong manh ấy, mình đau khổ, cho đến chín lần chờ đợi mà không được gặp ý trung nhân. Nguyen, & Phan, 2009, Hơn nữa, ông cũng chú trọng thi pháp không gian, thi pháp thời gian cùng nhạc tính trong các đoạn dịch thơ trong khi đối chiếu với nguyên tác. Những lí giải của ông thật tường tận, phần nào cho thấy sự cẩn trọng và tinh tường trong cách cảm thụ thi ca. Mặc dù trong bài viết này, Kiều Thanh Quế có giải thích rằng, đó là ý tưởng có được trong cuộc hội đàm với nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Thiều, nhưng cũng cho thấy được chút sở trường cũng như quan điểm thẩm mĩ của nhà phê bình họ Kiều. Về phương pháp phê bình giáo khoa, ta thấy xuất hiện đậm nhạt trong hầu hết các bài phê bình của Kiều Thanh Quế. Đặc điểm của phương pháp này là có sự kết hợp hài hòa các phương pháp tiểu sử, phương pháp văn hóa – lịch sử, phương pháp xã hội học và quan trọng là chú trọng đến văn bản. Ông cho rằng “phê bình một tác phẩm có giá trị về cốt truyện mà không để ý đến lối hành văn của tác giả thì chưa phải là làm được một công việc theo ý muốn của nhà phê bình” Nguyen & Phan, 2009, Vì thế, trong phê bình tác phẩm, Kiều Thanh Quế thường chú tâm đến kĩ thuật xây dựng tác phẩm chứ không chỉ đơn thuần chú ý đến nội dung. Trong bài phê bình “Bỉ vỏ của Nguyên Hồng”, ông chú ý “lối viết phóng sự tiểu thuyết” của Nguyên Hồng. Đó là “mục kích được một cảnh đời chạy vỏ của một “bỉ vỏ”. Nguyên Hồng nghĩ ra ngay một câu chuyện dàn xếp rất mạch lạc, trong đó bỉ vỏ ấy là vai chủ động và lấy cái tân tiểu thuyết là Bính” Nguyen, & Phan, 2009, Từ đó, ông cũng ngầm phê bình tác phẩm phóng sự của Trọng Lang “thấy sao chép y lại, để cả tên thiệt” không có tính nghệ thuật. Nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn này mà ta thấy các bài viết của Kiều Thanh Quế đều có tính chất biện chứng, khoa học, tăng sức thuyết phục đối với người đọc. Về phương pháp nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế, ta thấy có những nét tương đồng với một số cây bút phê bình ở Nam Bộ lúc bấy giờ như Lê Tràng Kiều, Lê Thọ Xuân, Hoàng Hạ Huệ. Tuy nhiên, ở Kiều Thanh Quế lại có sự hòa trộn, linh hoạt, uyển chuyển trong các phương pháp, tùy thuộc vào đối tượng tiếp nhận. Điều này có một phần lí do bởi đây là giai đoạn mà các lí thuyết văn học chưa được nhìn nhận một cách chuyên biệt như giai đoạn sau. Các phương pháp nghiên cứu đã tồn tại trong một trường vận động chung trong xu thế vừa mới tiếp nhận từ nước ngoài. Về phía chủ quan, bản thân Kiều Thanh Quế có điều kiện tiếp cận lí thuyết của nhiều trường phái phê bình văn học, do đó ông có cơ hội để lựa chọn và giữ được tâm thế bình tĩnh trước thế cuộc văn học lúc bấy giờ. Nhìn chung, trước sau ông vẫn là một ngòi bút trọng sự khoa học, nghiêm túc và tính hàn lâm trong lĩnh vực nghiên cứu. Mặc dù trong cuộc đời riêng ông có tham gia hoạt động cách mạng, nhưng ông không để thiên hướng chính trị chi phối cách nhìn nhận và đánh giá tác phẩm. Điều đó đã cho thấy một sự thận trọng, chừng mực trong ngòi bút, một trong những phẩm chất cần thiết của một nhà nghiên cứu. Đặc điểm kết cấu, văn phong, ngôn ngữ trong nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế Đặc điểm về kết cấu Các bài nghiên cứu của Kiều Thanh Quế hầu hết đều được kết cấu một cách logic, khoa học theo lối diễn dịch, hoặc có khi là tổng – phân – hợp. Ở đó, tác giả chủ động sắp đặt các ý tứ đi từ khái quát vấn đề rồi đến diễn giải, cuối cùng tổng kết, khẳng định lại vấn đề. Có khi từ một trường hợp, ông khái quát thành một bức tranh rộng lớn của văn học hoặc ngược lại, từ một vấn đề chung khái quát ông đi vào một trường hợp cụ thể. Ở những bài viết mang tính chất điểm sách, tác giả thường gói gọn ý tưởng ngay từ ban đầu bằng một nhận định khen hoặc chê, sau đó sẽ đi vào chứng minh cho lập luận của mình. Rải rác trong các bài phê bình của mình, Kiều Thanh Quế còn xen kẽ đề cập các khái niệm, thuật ngữ văn học hoặc các vấn đề lí thuyết có liên quan nhằm làm rõ thêm vấn đề trong bài viết. Chẳng hạn trong bài phê bình “Làm đĩ”, “Thanh niên “Người đàn bà trần truồng” và quan niệm tình dục trong văn chương Việt Nam, để làm rõ hơn lập luận của mình, Kiều Thanh Quế đã dẫn một phần giới thiệu cho độc giả hiểu được tinh thần cốt lõi học thuyết phân tâm học của Freud. Trong phê bình “Nắng đào” của Nguyễn Xuân Huy, khi khẳng định “Nắng đào” thuộc chủ nghĩa lãng mạn, nhà phê bình đã dẫn một đoạn nói về sự ra đời chủ nghĩa lãng mạn ở Pháp, đồng thời cho thấy trào lưu văn học đó ở Việt Nam lúc bấy giờ không còn phù hợp nữa. Ngoài ra, việc sử dụng khái niệm làm điểm tựa cho các lập luận, kiến giải và phê bình trong các bài viết cũng góp phần làm tăng tính khoa học, hàn lâm, mặt khác cung cấp thêm tri thức cho độc giả. Thiết nghĩ đây là một điều cần thiết bởi trong bối cảnh lúc bấy giờ không phải tất cả độc giả văn chương đều đã được tiếp cận sâu sát các lí thuyết văn học ở nước ngoài. Đây vừa là một hành động có ý thức nhưng có thể cũng là một thói quen của một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học giai đoạn này. Một điểm đặc biệt nữa ta thấy trong các bài viết của Kiều Thanh Quế là lối kết cấu thể hiện rõ thời gian sự kiện cũng như tính thời sự của vấn đề. Nhiều bài viết của ông nhằm trao đổi, đối thoại lại bài viết của các tác giả khác vừa công bố trên báo. Nắm bắt các sự kiện văn học một cách nhanh nhạy, ông rất chú ý về phương diện thời gian của các sự kiện văn học. Các từ ngữ ông thường sử dụng trong lập luận là “vừa rồi”, “gần đây”, “năm ngoái”, “trước đây”, “xa một chút”, “ít lâu sau”… Do vậy mà đọc bài của ông, người đọc thấy rõ hơi thở cũng như nhịp vận động của đời sống văn học. Ông không tách biệt hoặc phơi bày sự kiện văn học như một đối tượng biệt lập với đời sống để giải phẫu, nghiên cứu mà để các sự kiện được “nóng hổi” hơi thở trong chính cuộc sống của nó. Tuy nhiên, đâu đó trong một số bài phê bình ta vẫn thấy có những kết cấu không chặt chẽ hoặc có những liên hệ nằm ngoài hệ thống. Nguyễn Văn Trung khi đọc cuốn Ba mươi năm văn học và Tiến hóa văn học Việt Nam của Kiều Thanh Quế đã công nhận đóng góp của Kiều Thanh Quế là “đi xa hơn trong dự định muốn phác họa lịch trình diễn tiến văn học của cả một dân tộc”, tuy nhiên ông cũng thẳng thắn nhận xét công trình của Kiều Thanh Quế là “chưa hẳn là một xây dựng có hệ thống văn học sử mà chỉ là phát họa những nét lớn của một lịch trình diễn tiến văn học và những tiêu chuẩn đề ra để phân chia thời kì, khuynh hướng văn học cũng chưa được hợp lí lắm” Nguyen, 1968, Nhà nghiên cứu Hoài Anh, tác giả cuốn Chân dung văn học cũng đã dành một số lượng trang đáng kể để phân tích những đóng góp cũng như hạn chế của tác giả phê bình này. Trong đó, ông cũng chỉ ra những chỗ ông cho rằng Kiều Thanh Quế đã khá rời rạc, thậm chí là tự mâu thuẫn trong quan điểm nghiên cứu Hoai, 2001, Theo chúng tôi, vì hầu hết các bài phê bình, nghiên cứu của Kiều Thanh Quế được công bố qua báo chí nên ông thường kết cấu theo lối mở hơn là một kết thúc đóng kín. Lối viết này thường mang lại cho người đọc sự bất ngờ, đồng thời dễ gợi những ý kiến trao đổi, nghị luận, một hoạt động thường xuyên, cũng là thế mạnh trong hoạt động văn học giai đoạn này. Đặc điểm về văn phong Sức mạnh của ngòi bút phê bình Kiều Thanh Quế được tạo nên bởi văn phong súc tích, chặt chẽ cùng với lối viết thẳng thắn, đi trực diện vào vấn đề. Đây là một lối viết khá thẳng thắn, không vòng vo, thể hiện cái nhìn bộc trực, chỉ rõ những điểm hay, dở của tác phẩm chứ không câu nệ, cả nể. Nhiều câu trong bài viết, ông sắp đặt theo lối diễn giải, tạo sự rành mạch, dễ hiểu. Ví dụ như câu “Những nhát bay giản dị là nghệ thuật Tô Hoài câu văn ngắn mà đủ nghĩa nhờ những chữ không cầu kì mà đặt đúng chỗ” Nguyen & Phan, 2009, Hoặc cũng có khi ông viết theo lối nêu khái niệm “Nhà văn là nhà sáng tác. Nhà bác học là bực học rộng chuyên biên khảo, dịch thuật chớ không có sáng tác nào đáng kể” Nguyen & Phan, 2009, Nhiều đoạn trong bài viết Kiều Thanh Quế cũng dùng giọng văn trao đổi, tranh luận “Thế nào là nhà văn? Ở đầu tác phẩm của mình, Vũ Ngọc Phan đã định nghĩa […]. Định nghĩa như thế Vũ Ngọc Phan chỉ mới phân biệt nhà văn với nhà báo thôi! Ông còn quên cho độc giả rõ thế nào là nhà văn, thế nào là nhà bác học!” Nguyen & Phan, 2009, Ông cũng hay dùng các cụm từ chỉ ý trao đổi, tranh luận làm sáng tỏ vấn đề như “đố ai tìm được…”, “sao có thể gọi là…”, “một tác phẩm được mọi người cho hay, vị tất đã là hay! Điều gì cổ nhân bảo phải, vị tất đã là phải!” Nguyen, & Phan, 2009, Là một cây bút phê bình văn chương, nhưng không chỉ dừng lại ở chủ đích thẩm bình, khen chê, Kiều Thanh Quế còn xem nghệ thuật phê bình là một cách thức để góp phần xây dựng, làm thay đổi tương lai nền văn học nước nhà. Chính vì vậy mà những lập luận của nhà phê bình họ Kiều khá thẳng thắn trên tinh thần góp ý, xây dựng. Phê bình “Triết học Bergson” của Lê Chí Thiệp, ông góp ý “Ước gì ông tác giả cuốn sách vừa bàn về trực giác của Bergson lại vừa nói chút đỉnh đến “trí lương tri” của Vương Dương Minh thì hay biết mấy. Chỗ dị đồng giữa Vương Dương Minh và Bergson cũng như chỗ dị đồng giữa Bergson và Tagore chắc hẳn là không phải không có Nguyen & Phan, 2009, Hay trong bài phê bình tác phẩm “Trở lửa vỏ ra”, một tiểu thuyết của Phan Khôi, Kiều Thanh Quế thẳng thắn góp ý vị tiền bối của mình “Ông Phan Khôi nên dành để nghệ thuật quý báu của mình nghệ thuật khảo cứu mà phụng sự những điều mình sở đắc. Tiểu thuyết không phải địa hạt của Phan tiên sinh” Nguyen & Phan, 2009, Ngòi bút ấy còn mạnh dạn trong việc đúc kết vấn đề, tạo điểm nhấn cũng như sức gợi cho người đọc. “Sau Khái Hưng còn có Trần Tiêu, Tô Hoài… Sau Hồ Biểu Chánh chỉ có Hồ Biểu Chánh hay sao? Nếu thế, đáng buồn thay cho làng tiểu thuyết Nam Kỳ!” Nguyen, & Phan, 2009, Có thể nói, tính cách thẳng thắn, bộc trực đã đi vào văn phong, cách triển khai bài viết cũng như sự quan tâm đến những vấn đề văn học của Kiều Thanh Quế. Đôi khi tự biết sự thẳng thắn của mình sẽ gây ra nhiều ý kiến bất lợi, nhưng trước sau ông vẫn giữ vững thái độ đó trong ngòi bút. Hơn một lần ngòi bút phê bình của Kiều Thanh Quế thể hiện quan điểm “yêu công lí” khi chỉ ra những trường hợp không thành thật trong văn chương. Đó là nghi án đạo thơ của Lưu Trọng Lư trong bài viết “Thi sĩ Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” đăng trên Tri Tân, số 138 tháng 4-1944, chỉ ra sự không thành thật của Lan Khai trong bài phê bình “Cuộc hội ngộ Lan Khai – Zweig “Tội và thương” gặp “La Peur” đăng trên Tạp chí Tri Tân số 43 tháng 4-1942, rồi đến bài “Vở “Jalousie” của Sacha Guitry biến thể trong Ghen’” đăng trên Tạp chí Tri Tân số 76 17-12-1942. Cũng trong bài viết này, Kiều Thanh Quế đã nêu rõ quan điểm của mình “Sau bài phê bình Tội và thương của Lan Khai, nhiều người chuộng sự thành thật trong văn chương tỏ lời khuyến khích ngọn bút hèn kém này, nhưng cũng có lắm kẻ nệ chấp cho chúng tôi làm thế là vì ác ý với tác giả. Ở đây chúng tôi xin miễn thân oan cho mình, và xin theo đuổi công việc của mình…” Nguyen, & Phan, 2009, Từ đó ta thấy, trong phê bình, Kiều Thanh Quế là một ngòi bút có cá tính, yêu sự chân thật, rõ ràng. Nhiệt tâm với công việc xây dựng nền văn học, ông đã bộc lộ tinh thần “trượng nghĩa” vốn hiện diện sâu đậm trong đời sống người dân Nam Bộ. Mặc dù vậy, ông cũng ý thức được đâu là điểm dừng của một nhà phê bình. Phê bình một tác giả hay tác phẩm, Kiều Thanh Quế chủ trương “Thi tài của một nhà thơ cần phải đem phân tích, rồi để độc giả nhân đó nhận thức, đánh giá trình độ, cái hay của thi sĩ ấy. Nhà phê bình, nhà làm truyện kí khỏi cần phải lôi thôi thêu dệt bằng lắm lời hoa mĩ…” Nguyen, & Phan, 2009, Phê bình một tác phẩm, theo ông, nhà phê bình cần phải chừng mực trong ngòi bút, tránh dẫn dắt độc giả tin theo những ý tưởng chủ quan của mình. Đặc điểm về ngôn ngữ Trong nghiên cứu cũng như phê bình, ngôn ngữ Kiều Thanh Quế có những đặc điểm như Sử dụng nhiều từ Hán Việt hoặc trích dẫn những câu chữ Hán thường dùng trong lí luận truyền thống. Ví dụ như trong bài phê bình ngòi bút viết truyện của Phan Khôi, Kiều Thanh Quế mở đầu bằng câu “Người đời xưa bảo “Không nên lấy từ hại ý”. Ông Phan Khôi không nghe lời” Nguyen, & Phan, 2009, Người xưa ở đây là chỉ những nhà tư tưởng lí luận văn học Trung Quốc, cụ thể ở đây là của Lưu Hiệp trong cuốn Văn tâm điêu long. Ngoài ra, nhiều khi trong một đoạn mà tác giả sử dụng xen kẽ những từ Hán Việt và những từ dịch ra từ tiếng Pháp, như “Trong phương hoạch hành văn procédé de style, trọng yếu nhất là hình tượng image và tả ảnh từ métaphore. Tả ảnh từ dạy cách chuyển tánh chất một thứ dễ ý hội sang một thứ khó ý hội. Cách chuyển hóa này biến thành lối so sánh, tỉ giảo comparasion” Nguyen, & Phan, 2009, Trong bài “Phiên dịch cũng là cách đào luyện văn chương” đăng trên Tri Tân số 49 6-1942, có đoạn Biết bao danh sĩ Tàu, Nhật sở dĩ quảng kiến đa văn được là nhờ học ở sách dịch. Lương Khải Siêu, một danh sĩ Tàu hồi Trung Hoa dân quốc thành lập chẳng hạn, nhờ học ở sách dịch mà uyên bác được tất cả uyên nguyên học phái triết học, khoa học, sử học… từ thượng cổ trải qua trung cổ đến tân kim thời đại, từ Hy Lạp trải qua La Mã đến Anh, Pháp, Đức, Mĩ thông hiểu được thuyết thực nghiệm của Bacon, thuyết tồn nghi của Descartes, thuyết xã ước của Rousseau, thuyết chánh trị, tạm quyền của Montesquieu, thuyết nguyên phú của Smith, thuyết quốc gia của Bluntchi, thuyết thiên diễn của Darwin, thuyết triết học điều hòa của Kant, thuyết lợi lạc của Bentham… Nguyen, & Phan, 2009, Lối sử dụng ngôn ngữ này có trong các bài nghiên cứu và phê bình của Kiều Thanh Quế khá nhiều. Viết nguyên âm những từ tiếng Pháp mà không dịch nghĩa. Ví dụ đoạn Kiều Thanh Quế viết về chủ nghĩa hiện thực “Ở nước ta trước thời kì 1935-1936 hay ở vào nước Pháp trước năm 1850, tức sanh nhằm một thời đại nó phân cách hậu diệp chánh thể dân chủ buộc joa démocratie bourgeoise với sơ diệp chánh thể dân chủ xã hội démocratie sociale” Nguyen, & Phan, 2009, Điều này có thể tạo nên sự khó hiểu cho người đọc bây giờ, nhưng giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, đó có lẽ là một hiện tượng phổ biến ở Nam Bộ. Bởi ngay cả trong ca dao Nam Bộ cũng có hiện tượng viết nguyên âm tiếng Pháp mà không dịch này. Như câu “Bước vô Trường Án, vỗ ván cái rầm/ Bủa xua ông Tham Biện, bạc tiền ông để đâu” Cao dao Nam Bộ. Bủa xua là tiếng bồi đọc trại từ chữ bonjour của Pháp. So với các cây bút miền Bắc vào giai đoạn này, sự ảnh hưởng Hán học đã lùi dần, nhường chỗ cho văn hóa phương Tây, thì ở Nam Bộ, sự ảnh hưởng của nền Hán học vẫn còn tồn tại. Ngoài ra còn do thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Nam Bộ. Nguyễn Văn Trung khi khảo sát văn học trên tờ Lục tỉnh Tân văn đầu thế kỉ đã nhận thấy rằng “riêng về từ, lời nói thường dùng từ nôm na bình dân, nhưng cũng có thể dùng nhiều từ Hán Việt, kể cả câu xuôi của chữ Nho mà người trí thức thời đó khi nói vẫn quen dùng nên khi viết cũng cứ để nguyên như vậy. Đến khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, đôi khi nói cũng pha tiếng Pháp, thì khi viết cũng viết như khi nói, không dịch ra” Nguyen, 2015, Nam Bộ là nơi có sự ảnh hưởng, giao lưu văn hóa khá đa dạng, lại thêm việc sử dụng tiếng Pháp từ rất sớm nên nhiều người đã quen với việc dung hợp nhiều thứ ngôn ngữ trong đời sống để thích nghi. Do vậy, trong ý thức, họ không cần dịch mà phát nguyên âm và mọi người vẫn có thể hiểu. Hơn nữa, văn học Nam Bộ còn có một đặc điểm là “văn viết học theo văn nói” trong khi miền Bắc thì ngược lại nên dần dần những yếu tố thuộc về phát âm cũng đi vào văn viết một cách tự nhiên. Ít chọn lọc ngôn ngữ viết thuần túy mà đã giữ lại cách diễn đạt tự nhiên, dân dã, đậm đặc ngôn ngữ của người bình dân Nam Bộ. Đặc điểm này hiện diện trong hầu hết các tác phẩm của Kiều Thanh Quế, kể cả nghiên cứu, dịch thuật và phê bình, nên phần nào cũng làm ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp trong văn phong nghiên cứu của ông. Ta có thể bắt gặp các từ như sanh, nhứt, lộn xộn, lôi thôi, dài ngoằng, cỏn con, vẽ vời, bưng, na ná, lèo tèo, nói qua loa… Theo Nguyễn Văn Trung, “Cuộc sống của miền Nam đưa người lưu dân đến chỗ dễ tước bỏ những cái trang trọng, đài các, chải chuốt, tế nhị, thâm trầm khi thực ra chúng chỉ còn là hình thức khuôn sáo quanh co ngăn chặn những thông cảm chân thành trực tiếp”. “Nói, viết văn cũng vậy. Trở về với cái chân thực, chân tình, thông cảm trực tiếp là trở về với ngôn ngữ nói hằng ngày, và nếu viết văn thì đó là thứ văn nói, nghĩa là thứ văn viết ra để đọc, để trình diễn cho mọi người xem, nghe bằng con mắt, lỗ tai, không phải thứ văn để đọc một mình” Nguyen, 2015, Cũng theo học giả này, sự trở về với lời nói hàng ngày trong văn chương không phải là một trường hợp riêng của miền Nam. Đó là một biểu lộ văn hóa ở những miền đất mới. Xét về một phương diện nào đó, nó biểu lộ “sự sống động, phong phú về ngôn ngữ của con người ở vùng đất mới, như một trở lại với cái khởi đầu, chưa có sự phân biệt, quy định chặt chẽ. Hiện tượng trên không phải là đặc thù, mà đúng ra chỉ bày tỏ một quy luật về văn hóa trong quan hệ của con người vùng đất cũ và vùng đất mới”, “biểu hiện một xã hội sống động đang chuyển mình, đổi mới” Nguyen, 2015, 452. Như vậy có thể nói, ngôn ngữ nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế thể hiện một đặc trưng rất Nam Bộ giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. Do tiếp thu cả hai nền phê bình truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây, nên trong ngôn ngữ phê bình, ta thấy Kiều Thanh Quế thường sử dụng trộn lẫn ba ngôn ngữ vừa dùng từ Hán Việt, vừa sử dụng những thuật ngữ về văn học hoặc chính trị, tư tưởng bằng tiếng Pháp, vừa kết hợp lớp ngôn ngữ bình dân Nam Bộ. Tùy vào cách nhìn nhận của mỗi người, nhưng theo chúng tôi, điều này ít nhiều đã cho thấy được bản lĩnh, sự tự tin của một nhà nghiên cứu. Bởi một trí thức Tây học như Kiều Thanh Quế vốn đã tiếp thu một lối hành văn khúc chiết, khoa học từ phương Tây thì không lẽ nào không thể khắc phục được những hạn chế về cách dùng từ mang tính chất địa phương. Hơn nữa các tác phẩm của Kiều Thanh Quế không chỉ xuất bản trong phạm vi địa phương Nam Bộ mà còn được ông chủ động đưa “tiếng nói địa phương” ra tận miền Bắc thông qua việc đăng bài trên Tạp chí Tri Tân. Vì thế, có thể xem đây là một hành động có chủ đích trong việc tạo nên một chất giọng riêng hiếm có thời bấy giờ. 3. Kết luận Có thể thấy phong cách nghiên cứu, phê bình của Kiều Thanh Quế gắn liền với lối tư duy thiên về lí trí, logic, xem trọng tính khoa học hơn là thiên về duy cảm; do đó, các tác phẩm của Kiều Thanh Quế dù là nghiên cứu hay phê bình cũng ít nhiều có giá trị về mặt lí luận và mang tính khoa học chứ không đơn thuần chỉ là tiếp nhận hoặc cảm thụ nghệ thuật. Về mặt kết cấu, các bài viết và công trình nghiên cứu của ông đôi chỗ có thể chưa được chặt chẽ nhưng cái chính là ông đã đóng góp cho độc giả và các nhà nghiên cứu sau này nhiều dữ liệu về các hoạt động trong đời sống văn học đương thời. Ngoài ra, do kiến văn rộng rãi, với lối so sánh và liên hệ linh hoạt, các công trình và bài viết của ông đã dẫn dắt, gợi mở cho người đọc nhiều vấn đề văn học có liên quan không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Quan trọng là ông không làm điều này chỉ để tăng sự sang trọng cho bài viết mà là muốn cung cấp thêm tri thức cho các độc giả trong nước thời bấy giờ. Cùng với Lê Thọ Xuân, Kiều Thanh Quế là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong trong vấn đề mở rộng giao lưu học thuật giữa miền Nam và miền Bắc thông qua việc nhiều bài nghiên cứu, trao đổi, phê bình của ông được đăng trên Tạp chí Tri Tân. Riêng điểm này đã cho thấy được bản lĩnh và sự tự tin của ông trong môi trường giao lưu học thuật bấy giờ. Và mặc dù công bố các bài viết của mình ở môi trường học thuật miền Bắc nhưng Kiều Thanh Quế không vì thế mà làm giảm đi văn phong mang tính cách Nam Bộ. Khác với lối viết của Đông Hồ hay Trúc Hà rất gần với văn phong miền Bắc, trước sau Kiều Thanh Quế vẫn giữ được chất giọng Nam Bộ rất riêng của mình. Tất cả những điều này có lẽ không nằm ngoài dự định muốn tạo nên một diễn ngôn mới trong nghiên cứu văn học dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoai Anh 2001. Literary portrait [Chan dung van hoc]. Hanoi Writers’ Association Publishing House. Nguyen, H. S., & Phan, M. H. compilation 2009. Evolution of Vietnamese literature [Cuoc tien hoa van hoc Viet Nam]. Hochiminh City Thanh nien Publishing House. Nguyen, V. T. 1968. Literary profile Literary research and criticism [Luoc khao van hoc nghien cuu va phe binh van hoc]. Saigon Nam Son Press. Nguyen, V. T. 2015. Research profile of the six provinces of Southern Vietnam [Ho so luc chau hoc]. Hanoi Tre Publishing House. Nguồn Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, Tập 17, Số 4 2020 743-754 Thánh Địa Việt Nam Học
các phương pháp phê bình văn học